Hành vi truyền thông xã hội của sinh viên - Tiếp cận từ lý thuyết sử dụng và hài lòng
Truyền thông xã hội được sinh viên sử dụng ngày càng phổ biến nhằm đáp ứng nhu cầu
của họ. Cách thức sử dụng truyền thông xã hội của sinh viên phụ thuộc vào mức độ nhận
thức và thái độ của họ. Với cách tiếp cận lý thuyết sử dụng và hài lòng, vai trò của sinh
viên trong việc sử dụng truyền thông xã hội được đề cao. Điều đó được biểu hiện trong
việc lựa chọn và sử dụng truyền thông xã hội. Họ chủ động trong việc tìm hiểu và lựa chọn
loại hình tham gia. Trên cơ sở tìm hiểu chức năng, hành vi truyền thông xã hội của sinh
viên được biểu hiện thông qua các hoạt động cụ thể.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Hành vi truyền thông xã hội của sinh viên - Tiếp cận từ lý thuyết sử dụng và hài lòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hành vi truyền thông xã hội của sinh viên - Tiếp cận từ lý thuyết sử dụng và hài lòng
bị cho nghề nghiệp, chuyên môn nhất định tại các trường đại học, cao đẳng (Mai Thị Duyên, 2016). Vì vậy, tâm lý xã hội của SV không chỉ phụ thuộc vào nhóm lứa tuổi mà còn phụ thuộc vào vị trí nghề nghiệp của họ trong xã hội. Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ: Hoạt động nhận thức, trí tuệ của lứa tuổi SV phát triển cả về chất lẫn về lượng so với các lứa tuổi trước đó. Các hoạt động này kế thừa một cách có hệ thống những thành tựu ở các giai đoạn phát triển trước. Mặt khác, họ phải tiếp cận các thành tựu khoa học đương đại và có tính cập nhật. Do đó, họ cần phối hợp các thao tác tư duy (phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa) để tìm ra bản chất của vấn đề. Các hoạt động này diễn ra ở cường độ cao và có tính chọn lọc rõ ràng (Mai Thị Duyên, 2016). Không những vậy, phạm vi hoạt động nhận thức của SV được mở rộng phạm vi như thư viện, phòng thực hành, thí nghiệm, thực tế chuyên môn vừa rèn luyện kỹ xảo vừa phát huy kỹ thuật nghề nghiệp (Nguyễn Hồi Loan & Trần Thu Hương, 2019). Để nâng cao kiến thức, SV chủ động tìm kiếm thông tin, cập nhật các thành tựu khoa học kỹ thuật trên nhiều phương tiện khác nhau. Internet là một trong những lựa chọn phổ biến nhất của SV vì những giá trị mà nó mang lại không thể chối bỏ. Hơn nữa, nhận thức của SV về vai trò của TTXH ngày càng rõ ràng hơn. Từ đó, họ sẽ xây dựng cách thức sử dụng và ứng xử phù hợp. Sự phát triển đời sống xúc cảm, tình cảm: Biểu hiện của tình cảm cấp cao (tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ) ngày càng phong phú, đa dạng và các loại tình cảm này phát triển ổn định ở lứa tuổi SV (Nguyễn Hồi Loan, & Trần Thu Hương, 2019). Tình cảm khác giới ở lứa tuổi SV có định hướng nhất định. Hơn nữa, tình cảm nghề nghiệp là một trong những loại tình cảm được hình thành và phát triển trong giai đoạn này (Mai Thị Duyên, 2016). Đời sống tình cảm của SV vô cùng phong phú. Đó là động cơ thúc đẩy SV giao lưu, kết bạn mà không có giới hạn về khoảng cách. Vì vậy, SV sẽ tìm đến các thiết bị, phương tiện giúp họ xây dựng mối quan hệ và TTXH là một trong những loại hình họ rất quan tâm và tham gia. Sự phát triển nhân cách: Nhân cách SV là nhân cách của người NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 69 trẻ tuổi đang được chuẩn bị để thực hiện chức năng người lao động có trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của xã hội (Nguyễn Thị Bắc, 2018). Thông qua quá trình tự đánh giá, SV biết được những ưu điểm, hạn chế của bản thân. Trên cơ sở đó, họ xây dựng kế hoạch phát triển nhằm hoàn thiện và khẳng định bản thân trong nhà trường và ngoài xã hội. Các hoạt động khác: Ở lứa tuổi SV, các hoạt động ngoại khóa luôn được chú trọng. SV tích cực tham gia các câu lạc bộ, đội nhóm không chỉ để rèn luyện kỹ năng, nghiệp vụ mà còn gia tăng vốn sống của bản thân, đời sống tình cảm trở nên phong phú. Bên cạnh các hoạt động nhận thức, hoạt động giải trí ở SV cũng được chú trọng. Thông qua đó, những căng thẳng trong học tập sẽ được giải phóng (Mai Thị Duyên, 2016; Nguyễn Thị Bắc, 2018). 2.4.2. Khái niệm hành vi truyền thông xã hội của sinh viên tiếp cận lý thuyết sử dụng và hài lòng Hành vi cá nhân là kết quả của sự tác động qua lại của các nhân tố chủ quan của chủ thể và các nhân tố khách quan của môi trường. Hành vi cá nhân luôn chứa đựng sắc thái và tính chất, trình độ phát triển của xã hội. Môi trường mới với những đặc điểm sinh hoạt không giống nhau giữa các bạn, với các mối quan hệ đa chiều giữa người với người dựa trên nền tảng yêu cầu về kỹ thuật, trên nền tảng thiên về yếu tố cá nhân do đó mà sức ảnh hưởng đến hành vi của mỗi cá nhân sẽ có cách ứng xử khác nhau (Nguyễn Thị Bắc, 2018). Dưới góc độ tiếp cận lý thuyết U&G, hành vi TTXH của SV được hiểu là cách mà họ sử dụng các phương tiện TTXH nhằm thỏa mãn nhu cầu, đạt được mục đích của mình và được biểu hiện thông qua các hành vi cụ thể. 2.4.3. Biểu hiện hành vi truyền thông xã hội của sinh viên tiếp cận lý thuyết sử dụng và hài lòng Từ góc nhìn của lý thuyết U&G, hành vi TTXH của SV được nghiên cứu trên hai phương diện: cách mà SV thao tác với các phương tiện TTXH và động cơ thúc đẩy họ sử dụng TTXH. 2.4.3.1. Biểu hiện hành vi truyền thông xã hội của sinh viên thông qua nhận thức Theo lý thuyết U&G, SV là người chủ động tìm hiểu, lựa chọn và sử dụng các phương tiện TTXH để làm thỏa mãn nhu cầu. Nói cách khác, nhu cầu là động lực thúc đẩy hành vi. Không những vậy, nhận thức đúng sẽ dẫn đến hành vi đúng và ngược lại. Nếu SV có nhận thức đúng về TTXH, hành vi sử dụng TTXH của họ sẽ đúng và người lại. Nhận thức về TTXH của SV trên hai phương diện chính là chức năng và vai trò của chúng. Nhận thức của SV về các chức năng của TTXH sẽ là cơ sở để họ lựa chọn tham gia và sử dụng. Đồng thời, một khi SV nhận thức được chức năng của các loại hình TTXH phù hợp với nhu cầu nào, họ sẽ sử dụng chúng phục vụ cho nhu cầu đó. Đơn cử như SV sẽ sử dụng Youtube để phục vụ nhu cầu giải trí của họ thay vì sử dụng các trang blog. Bởi vì, chức năng chính của Youtube là kênh giải trí tổng hợp. Cách thức sử dụng TTXH của SV sẽ phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hiểu biết của họ về vai trò của TTXH. Nếu SV biết cụ thể về những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của TTXH, phương pháp sử dụng TTXH của SV sẽ mang lại lợi ích thiết thực. Cách thức sử dụng được biểu hiện qua không gian, thời gian và địa điểm mà họ sử dụng chúng. Chẳng hạn, nếu họ biết SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 70 sử dụng TTXH ảnh hưởng đến kết quả học tập, sức khỏe... họ sẽ không sử dụng chúng trong lúc đang học và sử dụng chúng với thời lượng vừa phải, hợp lý. 2.4.3.2. Biểu hiện hành vi truyền thông xã hội của SV qua thái độ Thái độ là sản phẩm phức tạp của các quá trình học tập, lĩnh hội, trải nghiệm, cảm xúc bao gồm cả những hứng thú, ác cảm, thành kiến, mê tín, quan điểm khoa học và tôn giáo cũng như chính trị (Vũ Dũng, 2008). Thái độ được đề cập đến cảm xúc, biểu thị quan điểm cá nhân (đồng thuận hoặc không) với một vấn đề nào đó. Thái độ được chia ra làm thái độ tích cực và thái độ tiêu cực (cảm xúc tích cực và cảm xúc tiêu cực). Thái độ tích cực: khi SV truy cập các loại hình TTXH với tâm trạng thoải mái, thích thú, vui vẻ, tự hào về bản thân; từ đó hình thành thói quen khó từ bỏ (Mai Thị Duyên, 2016). - Thái độ tiêu cực: cảm xúc tiêu cực sẽ xuất hiện nếu như SV không được sử dụng TTXH như mong muốn của họ. Một số cảm xúc như nôn nao, bồn chồn khi chờ đợi một comment, like, v.v. Hơn thế nữa, SV có thể có biểu hiện giận dữ, thậm chí trầm cảm khi tiếp nhận phản hồi không tích cực (Mai Thị Duyên, 2016; Nguyễn Thị Bắc, 2018). 2.4.3.3. Biểu hiện hành vi truyền thông xã hội của sinh viên thông qua các hoạt động cụ thể Hành vi TTXH của SV bị thúc đẩy bởi các nhu cầu cụ thể. Một bộ phận SV sử dụng TTXH để gặp gỡ bạn bè, người thân, trong khi đó một số người khác sử dụng TTXH để giải trí (xem video, chơi game). Từ đó, hành vi sử dụng TTXH của họ sẽ được cụ thể hóa. Hành vi sử dụng TTXH được cụ thể hóa và chia thành hai nhóm: nhóm hành vi chủ động như like, post, share, comment; nhóm hành vi thụ động như click, watch, view/hovering (Ekstrom & Ostman, 2015). Nhóm hành vi chủ động: Hành vi nhấn nút “like”: ngụ ý rằng người sử dụng đồng quan điểm với nội dung và muốn bày tỏ sự yêu thích của họ đối với người đăng tải nội dung. Số lượt “like” nhận được có thể cho biết mức độ phổ biến của nội dung, của cá nhân người đăng tải nội dung. Nếu trạng thái của một người nhận được nhiều lượt “like” có nghĩa là nội dung có ý nghĩa, người đăng tải là người nổi tiếng hoặc thông tin đó có nhiều ý nghĩa (Paul & Mark, 2009). Không những vậy, SV sử dụng nút “like” nhằm thể hiện quan điểm của cá nhân và kết nối những điều mà họ quan tâm (Nguyễn Thị Bắc, 2018). Hành vi “share”: nút “share” cũng là một trong những cách thức chia sẻ nội dung, thông tin lên các trang TTXH giống như nút “like”. Tuy nhiên, “share” cho phép người dùng đăng tải lại những nội dung lên dòng thời gian của họ, của bạn bè, người thân hoặc gửi tin nhắn riêng cho từng cá nhân. Những nội dung này được thêm vào trên dòng thời gian và nó được diễn giải theo cách của người sử dụng mong muốn. Hay nói cách khác, việc chia sẻ một nội dung nào đó trên TTXH giải thích rằng họ muốn bày tỏ quan điểm cá nhân về thông tin đó (Rui & Stefanone, 2013). Hành vi “comment”: đóng một vai trò quan trọng trong việc tác động đến nhận thức của người sử dụng (Hong & Cameron, 2018). Hơn nữa, “comment” có xu hướng ảnh hưởng đến dư luận và có tác động gián tiếp đến nhận thức, hành vi của người khác (Carah, 2014). NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 71 Hành vi “post” là hành vi đăng tải những thông tin, hình ảnh (cá nhân, món ăn, địa điểm du lịch) lên dòng trạng thái của mình. Đây là một trong những phương thức giao tiếp hữu hiệu giữa các cá nhân với nhau trên TTXH. Do đó, động cơ của hành vi “post” trên TTXH cũng được nghiên cứu. Hành vi post trên TTXH sẽ tạo ra một mối quan hệ gần gũi giữa các cá nhân với nhau, đặc biệt là giới trẻ (Pempek, Yermolayeva & Calvert, 2009). Hơn nữa, hành vi “post” còn thể hiện bản chất xã hội, sự thừa nhận của xã hội, duy trì mối liên hệ giữa các cá nhân và nâng cao vị thế xã hội (Chung, Chin & Lee, 2011). Mặt khác, hành vi “post” nhằm để đáp ứng giải trí (Liu & Lin, 2011). Nhóm hành vi thụ động: Người sử dụng TTXH thường đóng hai vai trò: người tiêu thụ nội dung và người sản xuất nội dung; các hành vi thụ động thường gắn liền với vai trò là người tiêu thụ nội dung. Vai trò tiêu thụ nội dung được hiểu như là người xem, đọc, lướt qua (hover) những thông tin, hình ảnh hoặc video được đăng tải trên TTXH, thậm chí là “click” và những đường liên kết. Những hành vi thụ động gắn liền mật thiết với nhu cầu của người sử dụng. Đơn cử: nếu người mong muốn được giải trí, họ chỉ tìm kiếm những câu chuyện cười, hình ảnh vui nhộn, video hài hước để có thể giải tỏa cảm xúc của họ. 3. Kết luận Truyền thông xã hội ngày càng chiếm giữ vị trí quan trọng trong đời sống con người. TTXH có tính hai mặt, tùy vào cách thức sử dụng c SV mà TTXH sẽ có ảnh hưởng tích cực hoặc tác động tiêu cực đến họ. Điều đó phụ thuộc vào nhận thức, thái độ của mỗi cá nhân về TTXH. Từ khi truyền thông xuất hiện, lý thuyết U&G đã được đề xuất và nghiên cứu. Mặc dù, lý thuyết này còn tồn tại một số hạn chế, nhưng nó được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu về sản phẩm truyền thông từ truyền thống đến hiện đại. Hành vi TTXH của SV tiếp cận lý thuyết sử dụng và hài lòng được biểu hiện trên ba phương diện: nhận thức, thái độ và hoạt động cụ thể, trong đó nhận thức và thái độ là nền tảng để đánh giá hành vi. Dễ hiểu hơn, biểu hiện cụ thể hành vi TTXH của SV tỉ lệ thuận với mức độ nhận thức và thái độ của họ về chúng. Các hoạt động cụ thể không chỉ biểu hiện ở thời gian, thời điểm, địa điểm mà còn ở những hoạt động gắn liền với những tiện ích của TTXH. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Nguyễn Thị Bắc. (2018). Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên Trường Đại học Hải Dương. Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Vũ Dũng. (2008). Từ điển Tâm lý học. NXB Từ điển Bách khoa. Mai Thị Duyên. (2016). Hành vi sử dụng mạng xã hội Facebook của SV Trường Đại học Đồng Nai. Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Nguyễn Hồi Loan & Trần Thu Hương. (2019). Hành vi con người và môi trường xã hội. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 72 Tiếng Anh Aisar, S. M., Mohd, N. L. A., & Nur, S. I. (2015). Exploring the Uses and Gratifications Theory in the Use of Social Media among the Students of Mass Communication in Negeria. Malaysian Journal of Distance Education 17(2), 83 95. Akram, W., & Kumar, R. (2017). A Study on Positive and Negative Effects of Social Media on Society. International Journal of Computer Sciences and Engineering, Vol – 5, E-ISBN: 2347 – 2693. Blackshaw, P., & Nazzaro, M. (2006). Word of mouth in the age of the web-fortified consumer. Consumer-generated media. Blumler, J. G. (1979). The role of theory in uses and gratifications studies. Communication Research, Vol 6, 9–36. Carah, N. (2014). Like, comment and share: Alcohol brand activity on Facbook. Foundation for Alcohol Research and Education, The University of Queensland. Ekström, M., & Ostman, J. (2015). Information, interaction, and creative production: the effects of three forms interest use on youth democratic engagement. Communication Research. 42 (06). 796 – 818. Ivan, T., Maja, M., & Zrinka, S. (2014). Uses and Gratifications Theory – Why Adolescents use Facebook? Medij. istraž. (god. 20, br. 2) 2014. (85-110). Hootsuite. (2020). Digital 2020 Vietnam All the data, trends, and insight you need understand, how people use the Intertnet, mobile, social media, and Ecommerce, truy cập https://oscartranads.com/wp-content/uploads/2020/02/vietnam-digital-report- 2020-oscartranads-source-dataportal-compressed.pdf. Hong, S., & Cameron, G. T. (2018). Will comments change your opinion? The persuasion effects on online comments and heuristic cues in crisis communication. J Contigencies Crisis Manange. 26 (01). 173 – 182. Katz, E., Gurevitch, M., & Haas, H. (1973). On the use of the mass media for important things. American Sociological Review, 38, 164–181. Kazt, E., Blumler, J. G., & Gurevitch, M. (1974). The uses of Mass Communications: Current Perspectives on Gratifications Research. SAGE: Newcastle upon Tyne, UK. Kennedy, G., Dalgarno, B., Gray, K., Judd, T., Waycott, J., Bennet, S., Maton, K., Krause, K., Bishop, A., Chang, R., &Churchward, A. (2007). The netgeneration are not big users of web 2.0 technologies: preliminary findings. Proceedings Ascilite Singapore, 517-525. Lai, L.S.L. & Turban, E. (2008). Group formation and operations in the Web 2.0 environment and social networks. Group Decision and Negotiation, 17(5), 387-402. NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 73 Paul, T. F., & Mark, S. (2009). Self-monitoring. Handbook of individual differences in social behavior (pp. 574–591). New York, NY: Guilford Press. Rui, J.R., & Stefanone, M.A. (2013). Strategic image management online: self- presentation, self-esteem and social network perspectives. Inf. Communications. Soc. 16 (8), 1286–1305. West, R. L., & Lynn, H. T. (2010). Introducing Communication Theory: Analysis and Application. Boston: McGraw-Hill. Ngày nhận bài: 24/8/2020 Biên tập xong: 15/02/2021 Duyệt đăng: 20/02/2021
File đính kèm:
- hanh_vi_truyen_thong_xa_hoi_cua_sinh_vien_tiep_can_tu_ly_thu.pdf