Gỡ bỏ rào cản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại
Làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bước vào giai đoạn bùng
nổ với xu thế đổi mới công nghệ nhanh chóng có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong bối cảnh tự do hóa thương mại, cạnh tranh từ các
nước trong khu vực và các đối thủ thuộc nhóm các nền kinh tế đang phát triển ngày càng
mạnh, niều hiệp định thương mại, đầu tư đa và song phương khác được ký kết sẽ đặt doanh
nghiệp Việt Nam vào vị thế phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt với các doanh nghiệp của các
nước thành viên khi hàng rào thuế quan gần như được gỡ b hoàn toàn. Bên cạnh đó, muốn
“sống kh e” trong bối cảnh hội nhập, ngoài tiếp cận vốn, các doanh nghiệp nh và vừa cần
phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới. Khu vực doanh nghiệp ngày càng phát huy và khẳng
định vai trò, vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Tuy nhiên, để doanh
nghiệp Việt Nam phát triển bền vững và nâng cao được sức cạnh tranh trong bối cảnh tự do
hóa thương mại toàn cầu, đòi h i, một mặt các doanh nghiệp phải sáng tạo và đổi mới. Mặt
khác, để doanh nghiệp phát triển bền vững, cần phải có sự chung sức hỗ trợ từ phía Nhà
nước, Chính phủ, các Bộ ngành và các Hiệp hội có liên quan.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Gỡ bỏ rào cản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại
nh thấp để có thể xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu Đặc biệt, mối liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất yếu và có nhiều hạn chế. Theo một cuộc khảo sát của JETRO4, các công ty Nhật Bản, một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, mua sắm khoảng 32,4% các dịch vụ và sản phẩm đầu vào từ các nhà cung cấp địa phương trong năm 2016. Con số này thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI của Nhật tại các nước láng giềng ví dụ như Trung Quốc (67,8%), Thái Lan (57,1%) và Indonesia (40,5%). Cũng cần nhấn mạnh rằng trong số các doanh nghiệp cung cấp cho các công ty FDI của Nhật Bản tại Việt Nam, 58,9% các doanh nghiệp đó là các công ty FDI có trụ sở tại Việt Nam. Chỉ có 13% 4 JETRO (2016), ―Khảo sát về Điều kiện kinh doanh của các Công ty Nhật Bản tại Châu Á và Châu Đại Dương‖. Hiện tại, chỉ 21% DNNVV Việt Nam là một phần trong chuỗi giá trị toàn cầu và chỉ 14% DNNVV đã thành công trong việc thu hút khách hàng hoặc đối tác nước ngoài, mặc dù số lượng FDI được đầu tư trong nước là rất lớn. Tình trạng năng suất thấp và thiếu lao động có tay nghề cao ở các doanh nghiệp trong nước đã làm hạn chế những mối liên kết chuỗi giá trị. Các rào cản khác hạn chế sự phát triển các doanh nghiệp Việt Nam Hiện nay, các doanh nghiệp tiếp tục có các phản ánh, kiến nghị liên quan tới thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh, sự mâu thuẫn, không rõ ràng giữa các quy định pháp lý. Vẫn còn nhiều doanh nghiệp phản ánh chưa tiếp cận với các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước... do không có thông tin hoặc thông tin không đầy đủ, các thủ tục còn phức tạp, nhiều tầng nấc, mất nhiều thời gian, chi phí bỏ ra để theo đuổi thậm chí còn lớn hơn tổng số tiền được nhận hỗ trợ. Việc cắt giảm điều kiện kinh doanh trong một số lĩnh vực chưa thực chất hoặc khi cắt giảm nhưng chưa công bố rộng rãi và có so sánh cụ thể các thủ tục doanh nghiệp cần thực hiện trước và sau khi cắt giảm. (Nguyễn Quang Thái (2018), Phan Thế Công (2019)). Một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã được ban hành nhưng chưa đi vào cuộc sống: Ưu đãi thuế thu nhập DN cho các DN nhỏ và vừa; ưu đãi về tín dụng, hỗ t rợ lãi suất, hỗ trợ mặt bằng sản xuất do chưa có sự đồng nhất giữa các Luật; hoặc do thiếu nguồn lực để triển khai. Thực tế cho thấy, hạn chế yếu kém xuất phát từ quy mô nhỏ bé của DN. Đa số là siêu nhỏ, nhỏ và vừa. (chiếm 97-98% tổng số DN). Các doanh nghiệp vẫn còn tư duy kinh doanh chộp giật, mong muốn làm giàu nhanh chóng mà không chịu đầu tư thời gian và công sức để học hỏi và nghiên cứu, nhất là các công nghệ mới, công nghệ lõi của sản phẩm. Một số doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia: Tình trạng trốn thuế, gian lận thương mại, gây ô nhiễm môi trường 1103 5. Một số kiến nghị và giải pháp giảm thiểu các rào cản để năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam Hiện nay, Việt Nam vẫn là điểm đến đầu tư hấp dẫn trong khu vực ASEAN và Châu Á. Nhà đầu tư của các nước Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc tiếp tục đặt niềm tin rất cao vào thị trường Việt Nam, nhiều tập đoàn lớn có chiến lược xây dựng căn cứ địa thứ hai của mình tại Việt Nam. Đây là cơ hội cũng là động lực để các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi, đổi mới, nâng cao năng lực để có thể trở thành đối tác của các DN nước ngoài, từng bước nâng cao cấp độ tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và thế giới. Nhận thức và sự quan tâm của xã hội, cộng đồng quốc tế và Chính phủ ngày càng gia tăng trong việc thúc đẩy phát triển các mô hình kinh doanh, đổi mới sáng tạo gắn với các mục tiêu phát triển bền vững (sản xuất sạch, xanh, hướng tới người thu nhập thấp, người yếu thế trong xã hội). Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, cần có sự vào cuộc của các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội và các doanh nghiệp. 5.1. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước Để gỡ b các rào cản phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam, các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia: hoàn thiện cơ chế chính sách và đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; rà soát cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính; nghiêm túc thực hiện công bố công khai, minh bạch, có sự so sánh trước và sau khi cắt giảm, hướng dẫn cụ thể quy trình, thủ tục thực hiện. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển tốt, nâng cao vị thế vào sự đóng góp phát triển của nền kinh tế thì Chính phủ, Quốc hội cần rà soát lại những văn bản pháp luật, trước hết là các luật liên quan tới tổ chức hoạt động của doanh nghiệp để đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Những luật liên quan đến điều kiện hoạt động của doanh nghiệp như Luật Tài chính, tiền tệ, tín dụng, các luật về đất đai, đấu thầu, đấu giá để đảm bảo tính đồng bộ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Cần phải có cách nhìn tổng thể hơn, rà soát lại để đảm bảo cho khối doanh nghiệp nói chung có thể chủ động, sáng tạo, bình đẳng tiếp cận nguồn lực trong xã hội như nguồn lực về tài chính, vốn, nguồn lực về lao động và các cơ chế chính sách khác. Thứ hai, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp (cắt giảm điều kiện kinh doanh, cải cách quản lý thuế, hải quản, xây dựng chính phủ điện tử). Xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số ở Việt Nam là điều kiện tiên quyết, cần phải làm nhanh và mạnh. Hành lang pháp lý trong ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử đã dần được thiết lập. Một số cơ sở dữ liệu mang tính chất nền tảng thông tin như Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia đang được xây dựng và đã có những cấu phần đi vào vận hành. Các cơ quan Nhà nước đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân như: Đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội 1104 Thứ ba, triển khai thực hiện kế hoạch phát triển bền vững doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các mô hình kinh doanh bền vững, công nghệ sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên. Khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, khai thác cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp; Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Thúc đẩy khởi nghiệp, chú trọng khởi nghiệp sáng tạo trong một số ngành có lợi thế và tiềm năng; tạo điều kiện hình thành doanh nghiệp công nghệ, nhất là doanh nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông; tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa mô hình kinh doanh mới và kinh tế truyền thống theo hướng rà soát, bãi bỏ các quy định về điều kiện kinh doanh không phù hợp với lĩnh vực kinh doanh truyền thống; xây dựng khung thể chế thí điểm cho mô hình kinh doanh mới trong một số lĩnh vực có tiềm năng rủi ro cao. Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện chính sách thu hút các công nghệ hiện đại tạo ra các sản phẩm, dịch vụ xanh, sạch, thân thiện với môi trường; hoàn thiện các tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn về khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, về ứng dụng chuyển giao công nghệ, sử dụng năng lượng trong thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài. Thứ năm, tăng cường liên kết doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp lớn, DNNN, doanh nghiệp FDI liên doanh, liên kết với các DNNVV trong nước; đồng thời nâng cao năng lực doanh nghiệp tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, phát triển chuỗi giá trị bền vững. Một trong ba nội dung hỗ trợ trọng tâm của Luật Hỗ trợ DNNVV là hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết, chuỗi giá trị. Nghị định 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật đã quy định các Bộ, ngành, địa phương chủ động xây dựng Đề án hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Thứ sáu, tăng cường khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng và các nguồn lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong đó: tập trung nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng (điện, đường, bến bãi, khu cụm công nghiệp xanh...); tăng cường tiếp cận tín dụng, đất đai, thông tin về khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ; phát triển nguồn lao động đáp ứng nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp thông qua tăng cường kết nối doanh nghiệp và nhà trường. Khuyến khích sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường Cùng với Chiến lược Tăng trưởng xanh, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất theo hướng bền vững như: Chính sách ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ tài nguyên môi trường, năng lượng sạch; Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030 Qua đó, ở nhiều địa phương, các doanh nghiệp điển hình thực hiện các biện pháp sản xuất xanh và sạch hơn. 1105 5.2. Đối với các hiệp hội doanh nghiệp Các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp tiếp tục phối hợp tích cực với các cơ quan quản lý nhà nước để khuyến nghị chính sách khuyến khích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm xã hội, tăng cường tham gia thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Thêm vào đó, chủ động tìm kiếm nguồn lực, xây dựng và triển khai các sáng kiến hỗ trợ phát triển doanh nghiệp thành viên, tăng cường liên kết để cùng phát triển hiệu quả, bền vững. Một điểm nữa, các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp tiếp tục xây dựng các chương trình, biện pháp cụ thể, khả thi để tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt vai trò hỗ trợ các doanh nghiệp hội viên, là cầu nối hiệu quả giữa doanh nghiệp và Chính phủ. 5.3. Đối với các doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực sản xuất, đón đầu và tham gia các chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp nước ngoài. Thúc đẩy đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, tăng công suất để phục vụ sản xuất; phát triển công nghiệp phụ. Các doanh nghiệp cần tăng cường đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt các công nghệ lõi có tính tiên phong. Các doanh nghiệp cần chủ động đổi mới tư duy kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ; chuẩn hóa sản xuất kinh doanh để đáp ứng các yêu cầu, tiêu chí của các thị trường quốc tế. Trong hội nhập, doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức, năng lực thực thi các quy định của pháp luật về phòng vệ thương mại, quy tắc xuất xứ, ghi nhãn; nâng cao tính tuân thủ pháp luật, thực hiện theo đúng các cam kết quốc tế về quy tắc xuất xứ hàng hóa. Không tiếp tay cho hoạt động chuyển tải hàng hóa từ các nước đang bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại sang Việt Nam để tiêu thụ nội địa hoặc xuất khẩu đi nước thứ 3, đồng thời phải thực hiện quản trị tốt việc lưu trữ các chứng từ về nguồn gốc xuất xứ của nguyên liệu, sản phẩm đẻ phục vụ hoạt động xác minh, điều tra của hải quan nước nhập khẩu trợ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh gắn với mục tiêu phát triển bền vững: sản xuất sạch, xanh, tiết kiệm, sử dụng hiệu quả năng lượng, bảo vệ môi trường, hướng tới nhóm người yếu thế trong xã hội. Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi, hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nhưng cũng có không ít rủi ro và thách thức. Bên cạnh đó những vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu và các vấn đề xã hội ngày một phức tạp. Chính vì vậy, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân cần phát huy tinh thần đoàn kết, biến lòng tự hào dân tộc thành sức mạnh để cùng nhau phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đồng thời tăng cường trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội, với quốc gia dân tộc, cùng nhau tạo dựng đất nước độc lập, tự chủ, bền vững và hùng cường. Thêm vào đó, tăng cường liên kết, hợp tác kinh doanh phát triển các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, dịch vụ, tiến tới nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Các doanh nghiệp cần tận dụng ưu đãi thuế quan FTA để 1106 tăng khả năng cạnh tranh về giá của hàng hóa cho doanh nghiệp, đồng thời tận dụng các cam kết về phát triển bền vững để tăng hình ảnh-uy tín của hàng hóa Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO ADB (2019), Asian Economic Intergration Report 2019/2020, demographic change, productivity, and the role of technology. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Báo cáo phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp – hội nhập, hiệu quả, bền vững. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với Doanh nghiệp ngày 23 tháng 12 năm 2019. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng: Doanh nghiệp Việt Nam năm 2019. NXB Thống kê. Chính phủ (2018), Nghị định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nh và vừa, Số: 34/2018/NĐ-Chính phủ. Đoàn Ngọc Phúc. (2017), Kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thành tựu, hạn chế và giải pháp phát triển, Tạp chí Lý luận chính trị số 09 năm 2017. Economica Vietnam (2018), “Kinh tế tư nhân Việt Nam: Năng suất và Thịnh vượng”, GSO (2016), Báo cáo mức độ sẵn sàng tham gia hội nhập quốc tế của doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo. GSO (2017, 2018, 2019), Báo cáo Thống kê kinh tế - xã hội. NXB Thống kê. Nghị quyết 10-NQ/TW Phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Đình Luận. (2015), Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 25(35), tr.24-28. Nguyễn Hồng Sơn. (2017), Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Những rào cản và giải pháp khắc phục. Nguyễn Quang Thái (2018), Nhận r rào cản để vươn lên trong cạnh tranh, Kỷ yếu Kội thảo quốc gia Kinh tế Việt Nam năm 2017 và Triển vọng năm 2018 với chủ đề: Tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp. NXB trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Nguyễn Thị Thu Trang (2019), Doanh nghiệp Việt Nam với CPTPP trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, Trung tâm WTO và Hội nhập Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Phan Thế Công (2018), Tập đoàn kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế, Kỷ yếu Kội thảo quốc gia Kinh tế Việt Nam năm 2017 và Triển vọng năm 2018 với chủ đề: Tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp. NXB trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2016-2019. Quốc Hội (2017), Luật Hỗ trợ các doanh nghiệp nh và vừa, số 04/2017/QH14.
File đính kèm:
- go_bo_rao_can_nham_nang_cao_nang_luc_canh_tranh_cua_cac_doan.pdf