Giáo trình Trợ giúp xã hội

Mục tiêu:

- Kiến thức:

+ Phân tích được tính tất yếu khách quan của trợ giúp xã hội;

+ Nêu được đối tượng, chức năng và phương pháp nghiên cứu của môn học;

+ Trình bày được một số khái niệm liên quan đến môn học;

+ Nêu được lịch sử hình thành và phát triển của trợ giúp xã hội ở Việt Nam.

- Kỹ năng: Xác định được vị trí của môn học trong chương trình đào tạo nghề công tác xã hội. Từ đó, áp dụng có hiệu quả kiến thức trợ giúp xã hội trong nghề nghiệp.

- Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tích cực rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp, chấp hành tốt các quy định trong quá trình học tập.

Nội dung chương:

I. Tính tất yêu khách quan của trợ giúp xã hội

1. Tác động của điều kiện tự nhiên

Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở Để thoả mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời, không phải khi nào con người cũng có thể lao động tạo ra được thu nhập. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất hạnh, rủi ro xảy ra làm cho con người bị giảm, mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác, chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau, tai nạn, mất người nuôi dưỡng, tuổi già, tử vong Hơn nữa, cuộc sống của con người trên trái đất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường sống. Những điều kiện thiên nhiên và xã hội không thuận lợi đã làm cho một bộ phận dân cư cần phải có sự giúp đỡ nhất định để bảo đảm cuộc sống bình thường. Do đó, để tồn tại và phát triển, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục khó khăn.

Từ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã tự khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”; đồng thời, còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống ASXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già , đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn ); Đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Bởi vì không phải lúc nào con người cũng gặp những thuận lợi, may mắn mà ngược lại luôn bị đe dọa trước những biến cố, rủi ro, bất hạnh,. vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi rơi vào những tình huống như vậy, nhu cầu khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng trở thành một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt, đối với những thuộc nhóm yếu thế, khi rơi vào những hoàn cảnh như vậy, họ lại càng dễ bị đe dọa và tổn thương nặng nề, không đủ khả năng tự lo liệu được cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Do đó, TGXH đối với nhóm người này là một biện pháp tương trợ cộng đồng mà con người tìm đến để giúp nhau vượt qua những tình huống khó khăn. Đây là hình thức tương trợ cộng đồng đơn giản, phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội mỗi quốc gia.

 

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 1

Trang 1

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 2

Trang 2

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 3

Trang 3

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 4

Trang 4

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 5

Trang 5

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 6

Trang 6

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 7

Trang 7

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 8

Trang 8

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 9

Trang 9

Giáo trình Trợ giúp xã hội trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 83 trang xuanhieu 3701
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Trợ giúp xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Trợ giúp xã hội

Giáo trình Trợ giúp xã hội
 phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước; tách bạch nhiệm vụ quản lý nhà nước với cung cấp dịch vụ công; tích hợp việc thực hiện các chính sách khác nhau đối với cùng nhóm đối tượng. 
Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; tiếp tục tuyên truyền vận động và tổ chức tốt các phong trào tương thân, tương ái; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng, bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời.
Đổi mới chính sách giảm nghèo, từ tiếp cận đơn chiều (dựa vào thu nhập) sang đa chiều (dựa vào các yếu tố khác ngoài thu nhập); tập trung nguồn lực trước hết vào thực hiện ở những nơi khó khăn nhất, nghèo nhất để giảm nghèo bền vững; tổng kết các mô hình giảm nghèo, an sinh xã hội đã và đang thực hiện có hiệu quả ở địa phương để có cơ sở hoàn thiện và nhân rộng ra các địa phương khác. Diện bao phủ của trợ giúp xã hội còn hạn chế. Mức hỗ trợ còn thấp, chưa bảo đảm được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu. Còn một bộ phận người dân khó khăn chưa tiếp cận được chính sách, dịch vụ trợ giúp xã hội. Chênh lệch đời sống của đối tượng sống ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mặt bằng chung của cả nước còn cao.
Tích cực và chủ động khai thác các nguồn lực xã hội, nguồn lực quốc tế; xây dựng cơ chế khuyến khích và huy động các tổ chức, doanh nghiệp tham gia cung cấp các dịch vụ xã hội theo phương thức hợp tác công tư; tăng cường sự tham gia của các tổ chức khoa học, tổ chức chính trị - xã hội trong việc đánh giá, giám sát hiệu quả thực hiện các chính sách xã hội./. Lưới an sinh xã hội nước ta chưa bao phủ được khu vực kinh tế phi chính thức, trong khi đây là khu vực thu hút rất nhiều lao động phổ thông và là nguồn sinh kế cho những nhóm thu nhập thấp, dễ bị tổn thương. Tình trạng làm việc không có bảo hiểm, không hợp đồng diễn ra phổ biến tại khu vực này. Người lao động phải làm việc trong điều kiện yếu kém, môi trường độc hại, lương thấp, không ổn định,...Trong khi đó, các doanh nghiệp và giới chủ ít chú trọng đến quyền lợi và bảo hiểm cho người lao động và điều này càng khiến cho việc bảo đảm chính sách trợ giúp xã hội trở nên gay gắt. Có thể nhận thấy, Việt Nam vẫn tụt hậu khá xa so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới về trợ giúp xã hội. Điều này đã trở thành một thách thức đối với phát triển bền vững và hội nhập. So với đổi mới tư duy về mô hình kinh tế, việc đổi mới tư duy về mô hình an sinh xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội còn chậm, vẫn nặng tư tưởng coi an sinh xã hội là trách nhiệm của Nhà nước, chưa thu hút được các thành phần kinh tế, các nguồn lực cho hoạt động quan trọng này. Trong khi đó, nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước nhằm thực hiện chính sách trợ giúp xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách công, với diện che phủ thấp và mức hỗ trợ có hạn. Diện bao phủ của nhiều chính sách trợ giúp xã hội còn hẹp, một bộ phận người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt về giáo dục, chăm sóc y tế, sức khỏe dinh dưỡng; mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước nhìn chung còn thấp, kết quả đạt được chưa bền vững; tỷ lệ tái nghèo cao do người cận nghèo, người gặp rủi ro dễ rơi vào đói nghèo. Ngoài nhóm nghèo, đối tượng chính sách, người có công, nhiều nhóm xã hội khác chưa được thụ hưởng, tham gia và chưa thụ hưởng trợ giúp xã hội. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trợ giúp xã hội vẫn mang tính chất phong trào, hiệu quả hạn chế. Nguồn lực cho trợ giúp xã hội và phúc lợi xã hội của tỉnh còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; chưa huy động được mạnh mẽ sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, chưa tạo ra sự đồng thuận cao trong nhân dân khi triển khai các chính sách xã hội. Mức độ bao phủ của TGXH thường xuyên trong cộng đồng mới đạt gần 3% dân số và 18,3 % tổng số người cần TGXH.
	2. Chỉ số tác động 
	3. Chỉ số tài chính 
– Kinh phí thực hiện chi trả trợ cấp xã hội hàng tháng đối với đối tượng bảo trợ xã hội thuộc diện hưởng trợ cấp hàng tháng, kinh phí hỗ trợ hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng tại cộng đồng được bố trí trong dự toán chi đảm bảo xã hội theo phân cấp ngân sách của địa phương.
– Kinh phí thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội:
+ Đối với cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội công lập thuộc cấp nào thì do ngân sách cấp đó bảo đảm trong dự toán chi đảm bảo xã hội;
+ Đối với cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội ngoài công lập được bố trí trong dự toán chi đảm bảo xã hội của ngân sách cấp tỉnh.
– Kinh phí tuyên truyền, phổ biến chính sách, xét duyệt đối tượng, ứng dụng công nghệ thông tin, quản lý đối tượng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ, tập huấn gia đình, cá nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng và kiểm tra, giám sát của các cơ quan thuộc cấp nào thì do ngân sách cấp đó bảo đảm trong dự toán chi đảm bảo xã hội theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật.
– Kinh phí thực hiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên được lập, phân bổ, sử dụng, quản lý và quyết toán theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Kế toán, các văn bản hướng dẫn Luật và quy định cụ thể tại Thông tư liên tịch này. Riêng năm 2015, ngân sách trung ương hỗ trợ kinh phí tăng thêm cho ngân sách địa phương như sau:
+ 100% cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách và tỉnh Quảng Ngãi.
+ 50% cho các địa phương có tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia về ngân sách trung ương dưới 50%.
– Đối với các địa phương sử dụng ngân sách địa phương để thực hiện một phần hoặc toàn bộ chính sách, nếu hụt thu do nguyên nhân khách quan hoặc tăng thu thấp: sau khi đã sử dụng 50% số tăng thu ngân sách địa phương (nếu có) và 50% dự phòng ngân sách địa phương theo dự toán được Thủ tướng Chính phủ giao mà vẫn còn thiếu thì ngân sách trung ương sẽ hỗ trợ phần chênh lệch thiếu.
– Các địa phương còn lại, ngân sách địa phương tự bảo đảm.
Bên cạnh đó các cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội ngoài công lập được bố trí trong dự toán chi đảm bảo xã hội của ngân sách cấp tỉnh.
Quy định về nguồn kinh phí thực hiện trợ giúp xã hội như hiện nay thể hiện được vai trò, trách nhiệm của nhà nước, nhất là các địa phương đối với công tác trợ giúp xã hội, đồng thời thể hiện được trách nhiệm của cộng đồng xã hội đối với các thành viên của mình. 
Như vậy, nguồn kinh phí thực hiện trợ giúp xã hội trước hết do ngân sách địa phương bảo đảm, tuy nhiên có sự hỗ trợ tích cực từ phía ngân sách của trung ương cho ngân sách địa phương. Ngoài ra:
Nguồn kinh phí trợ cấp xã hội thường xuyên thuộc cấp nào thì do ngân sách cấp đó đảm bảo theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành.
IV. Nguồn lực trợ giúp xã hội	
Để phát huy và huy động tốt các nguồn lực thực hiện an sinh và bảo trợ xã hội, không thể trông mong vào nguồn lực bao cấp của Nhà nước, vốn dĩ có hạn. Cần phát huy những nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, đẩy mạnh công tác xã hội hóa nhằm thu hút rộng rãi các nguồn lực trong và ngoài nước từ cá nhân, các tổ chức xã hội. Nhà nước cần khuyến khích tư nhân, cá nhân, chủ sử dụng lao động, doanh nghiệp, tổ chức cộng đồng cùng tham gia, phát triển các hình thức tự nguyện, cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội bền vững không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo cuộc sống an toàn cho mọi người dân Việt Nam.
1. Vai trò của nguồn lực trong trợ giúp xã hội
Bảo đảm an sinh xã hội trong đó có hoạt động trợ giúp xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội, đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của cá nhân, hộ gia đình, người lao động, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc bảo đảm an sinh xã hội theo tinh thần xã hội hóa, tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm các điều kiện sống của họ. Tuy nhiên công tác bảo trợ xã hội còn gặp phải một số khó khăn. Đó là nguồn lực thực hiện trợ giúp xã hội còn hạn hẹp, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; chưa động viên, thu hút được nhiều sự tham gia của các doanh nghiệp, khu vực tư nhân và các cá nhân, tổ chức xã hội đầu tư vào trợ giúp xã hội; nhiều đối tượng thụ hưởng chính sách còn có tâm lý ỷ lại vào Nhà nước. Và nguồn lực đầu tư cho trợ giúp xã hội còn hạn chế. Ngân sách bố trí cho các chính sách/chương trình TGXH thường xuyên bình quân hằng năm mới khoảng 0,5% GDP (ở các nước tỷ lệ này thường trên 3% GDP) và TGXH đột xuất khoảng 0,13% GDP. Huy động nguồn lực xã hội cho TGXH gặp nhiều khó khăn, thiếu bền vững, chưa có cơ chế quản lý thống nhất.
Vì vậy cần phải tăng cường huy động các nguồn lực cho chính sách an sinh xã hội. Tăng chi ngân sách nhà nước về an sinh xã hội đạt mức trung bình khu vực Đông Nam Á (7% GDP) kết hợp với huy động đóng góp của người dân, doanh nghiệp và xã hội cho an sinh xã hội. Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đa dạng các mô hình an sinh xã hội, các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào sự tham gia của cộng đồng (các đoàn thể địa phương, các nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia đình, dòng họ, cá nhân...) trong việc cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội, thực hiện các hoạt động nhân đạo, giúp đỡ, chia sẻ rủi ro đối với những nhóm yếu thế, những đối tượng đặc thù. Tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm của các nước trong xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội./.
2. Quan điểm hình thành nguồn lực trợ giúp xã hội
Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Việt Nam đang tích cực đẩy mạnh xây dựng một hệ thống an sinh xã hội với các chức năng phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục được các rủi ro, đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho mọi người trong mọi hoàn cảnh. Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020 nhằm đảm bảo mọi người dân có mức sống trung bình, không rơi vào tình trạng bần cùng hóa khi phải đối mặt với các rủi ro, bất trắc. Với mục tiêu đến năm 2020, hệ thống an sinh xã hội sẽ che phủ khắp toàn dân, hướng vào mục tiêu quyền con người, đặc biệt là quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, và bảo vệ các nhóm yếu thế trong xã hội (Vũ Văn Phúc, 2012). Trong điều kiện đó, bảo trợ xã hội ở Việt Nam đứng trước một đòi hỏi cấp bách là phải nhanh chóng hoàn thiện các chế độ (số lượng, nội dung đảm bảo, nguồn huy động,) nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong điều kiện phát triển mới (kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân, hội nhập quốc tế).
Để phát huy và huy động tốt các nguồn lực thực hiện an sinh và bảo trợ xã hội, không thể trông mong vào nguồn lực bao cấp của Nhà nước, vốn dĩ có hạn. Cần phát huy những nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, đẩy mạnh công tác xã hội hóa nhằm thu hút rộng rãi các nguồn lực trong và ngoài nước từ cá nhân, các tổ chức xã hội. Nhà nước cần khuyến khích tư nhân, cá nhân, chủ sử dụng lao động, doanh nghiệp, tổ chức cộng đồng cùng tham gia, phát triển các hình thức tự nguyện, cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội bền vững không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo cuộc sống an toàn cho mọi người dân Việt Nam.
3. Cơ chế tạo nguồn lực trợ giúp xã hội 
Nguồn tài chính của hoạt động trợ giúp xã hội được tạo chủ yếu từ ngân sách nhà nước, đồng thời có thể được tiếp nhận, sử dụng và quản lý các nguồn 
kinh phí và hiện vật (nếu có) do các tổ chức, cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ 
thiện; bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và thanh quyết toán theo chế độ tài chính hiện hành..
Nguồn kinh phí nuôi dưỡng, kinh phí hoạt động bộ máy và kinh phí 
đầu tư xây dựng cơ bản của các cơ sở bảo trợ xã hội thuộc cấp nào quản lý do 
4. Nguồn của nguồn lực trợ giúp xã hội
Kinh phí thực hiện trợ giúp đột xuất bao gồm: a) Ngân sách địa phương tự cân đối theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; b) Trợ giúp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ trực tiếp cho địa phương hoặc thông qua cơ quan, tổ chức. Trường hợp thiên tai, hỏa hoạn xảy ra trên diện rộng gây thiệt hại nặng và các nguồn kinh phí nêu ở mục a và b này không đủ để thực hiện trợ giúp đột xuất thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính để tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ lương thực, kinh phí từ nguồn ngân sách trung ương./.
5. Quản lý và sử dụng nguồn lực trợ giúp xã hội
Kinh phí thực hiện trợ giúp đột xuất bao gồm:
a) Ngân sách địa phương tự cân đối theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước;
b) Trợ giúp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ trực tiếp cho địa phương hoặc thông qua cơ quan, tổ chức.
Trường hợp thiên tai, hỏa hoạn xảy ra trên diện rộng gây thiệt hại nặng và các nguồn kinh phí quy định tại Khoản 1 Điều này không đủ để thực hiện trợ giúp đột xuất thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính để tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ lương thực, kinh phí từ nguồn ngân sách trung ương.
Việc lập dự toán, phân bổ, chấp hành và quyết toán kinh phí thực hiện chính sách trợ giúp xã hội theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
TGXH là một khoản đầu tư cho phát triển, nhất là đầu tư trợ giúp về dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai và trẻ em nhằm phát triển nguồn nhân lực trong tương lai, trợ giúp người dân tự tạo việc làm hoặc có cơ hội việc làm, kích thích tiêu dùng thúc đẩy tăng trưởng,... và là một cấu phần thiết yếu của một nền kinh tế thị trường thành công theo hướng tăng trưởng gắn kết xã hội, trong điều kiện nước ta còn nghèo, ngay cả trong những năm bị tác động mạnh của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngân sách nhà nước còn khó khăn, nhưng vẫn ưu tiên đầu tư cho TGXH. Nguồn ngân sách bố trí hằng năm tăng, trong đó cho TGXH thường xuyên bình quân năm khoảng 0,5% GDP, cho TGXH đột xuất khoảng 0,13% GDP. Một số địa phương (25%) tự cân đối được ngân sách đã chủ động tăng ngân sách cho TGXH trên cơ sở điều chỉnh nâng mức trợ cấp hằng tháng cao hơn mức chuẩn chung 1,2 - 2 lần. Huy động nguồn lực xã hội có xu hướng mở rộng (chiếm khoảng 15% - 20%), nhất là chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng, phát triển nghề công tác xã hội và TGXH đột xuất (11%)...
Tài liệu tham khảo
	1. “ Triển vọng kinh tế toàn cầu và của các nước đang phát triển”. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 5/10/2000
	2. Bộ LĐTBXH, Chương trình phát triển an sinh xã hội Australia: Tài liệu sổ tay Bảo trợ xã hội; tháng 4/2004.
	3. Việt Nam tấn công nghèo đói. Báo cáo phát triển của Việt nam năm 2000.
	4. Nguyễn Hải Hữu, Bộ Lao động TBXH: Một số quan niệm, khái niệm liên quan tới bảo trợ xã hội ở Việt nam (tài liệu viết cho hội thảo)
	5. Đặng Đức San, Bộ Lao động TBXH: Một số ý kiến về an sinh xã hội (tài liệu viết cho hội thảo)
	6. Lê Tuyết Nhung, Bộ Lao động TBXH: Bàn về các khái niệm trong lĩnh vực an sinh xã hội (tài liệu viết cho hội thảo)
	7. Trần Xuân Kỳ- Giáo trình trợ giúp xã hội – NXB Lao động xã hội, Hà nội năm 2008
	8. Bùi Thế Cường: Một số nhận xét về phúc lợi xã hội ở Việt Nam hiện nay

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_tro_giup_xa_hoi.doc