Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng

1.1 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1.1.1.Giới thiệu về Internet

1.1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Internet

Lịch sử Internet bắt đầu với việc phát triển máy tính điện tử trong những năm

1950. Các khái niệm ban đầu về mạng diện rộng bắt nguồn từ một số phòng thí

nghiệm khoa học máy tính ở Mỹ, Vương quốc Anh và Pháp. Bộ Quốc phòng Mỹ đã

trao các hợp đồng sớm nhất là vào những năm 1960, bao gồm cả việc phát triển dự

án ARPANET, lãnh đạo bởi Robert Taylor và quản lý bởi Lawrence Roberts. Tin nhắn

đầu tiên được gửi qua ARPANET vào năm 1969 từ phòng thí nghiệm của giáo sư

khoa học Leonard Kleinrock tại University of California, Los Angeles (UCLA) đến nút

mạng thứ hai tại Stanford Research Institute (SRI).

Mạng chuyển mạch gói như NPL network, ARPANET, Tymnet, Merit Network,

CYCLADES, và Telenet, được phát triển vào cuối những năm 1960 và đầu những

năm 1970 bằng nhiều giao thức truyền thông.Donald Davies lần đầu tiên chứng

minh chuyển mạch gói vào năm 1967 tại National Physics Laboratory (NPL) ở Anh,

nơi đã trở thành một thử nghiệm cho nghiên cứu của Vương quốc Anh trong gần hai

thập kỷ. Dự án ARPANET đã dẫn đến sự phát triển của các giao thức cho liên mạng,

trong đó nhiều mạng riêng biệt có thể được nối vào một mạng các mạng.

Bộ giao thức Internet (TCP/IP) được phát triển bởi Robert E. Kahn và Vint Cerf

những năm 1970vaf trở thành giao thức mạng chuẩn trên ARPANET, kết hợp các

khái niệm từ dự án CYCLADES của Pháp do Louis Pouzin chỉ đạo. Đầu những năm

1980, NSF đã tài trợ cho việc thành lập các trung tâm siêu máy tính quốc gia tại

một số trường đại học và cung cấp kết nối vào năm 1986 với dự án NSFNET, cũng

tạo ra quyền truy cập mạng vào các siêu máy tính ở Hoa Kỳ từ các tổ chức nghiên

cứu và giáo dục. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISPs) bắt đầu xuất hiện vào

cuối những năm 1980. ARPANET đã ngừng hoạt động vào năm 1990. Các kết nối

riêng tư hạn chế với các bộ phận của Internet bởi các thực thể thương mại chính

thức xuất hiện ở một số thành phố của Mỹ vào cuối năm 1989 và 1990,[5] và

NSFNET đã ngừng hoạt động vào năm 1995, xóa bỏ những hạn chế cuối cùng đối

với việc sử dụng Internet để mang theo giao thông thương mại.

Vào những năm 1980, nghiên cứu tại CERN ở Thụy Sĩ của nhà khoa học máy

tính người Anh Tim Berners-Lee đã đưa ra World Wide Web, liên kết các tài liệu siêu

văn bản vào một hệ thống thông tin, có thể truy cập từ bất kỳ nút nào trên mạng.

Từ giữa những năm 1990, Internet đã có một tác động mang tính cách mạng đối

với văn hóa, thương mại và công nghệ, bao gồm sự gia tăng của giao tiếp gần như

ngay lập tức bằng thư điện tử, tin nhắn tức thời, cuộc gọi qua điện thoại Giao thức

Internet (VoIP), tương tác hai chiều các cuộc gọi video và World Wide Web với các

diễn đàn thảo luận, blog, mạng xã hội và các trang web mua sắm trực tuyến. Cộng

đồng nghiên cứu và giáo dục tiếp tục phát triển và sử dụng các mạng tiên tiến như

JANET ở Vương quốc Anh và Internet2 ở Hoa Kỳ. Lượng dữ liệu ngày càng tăng được

truyền ở tốc độ cao hơn và cao hơn trên các mạng cáp quang hoạt động ở tốc độ 1

Gbit/s, 10 Gbit/s hoặc nhiều hơn. Internet tiếp quản bối cảnh truyền thông toàn cầu

gần như ngay lập tức về mặt lịch sử: nó chỉ truyền được 1% thông tin truyền qua

mạng viễn thông hai chiều vào năm 1993, đã là 51% vào năm 2000 và hơn 97%

thông tin được điều khiển vào năm 2007. Ngày nay Internet tiếp tục phát triển,

được thúc đẩy bởi lượng thông tin trực tuyến, thương mại, giải trí và mạng xã hội

lớn hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, tương lai của internet toàn cầu có thể được định

hình bởi sự khác biệt trong khu vực trên thế giới

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 1

Trang 1

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 2

Trang 2

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 3

Trang 3

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 4

Trang 4

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 5

Trang 5

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 6

Trang 6

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 7

Trang 7

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 8

Trang 8

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 9

Trang 9

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 170 trang xuanhieu 2880
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng

Giáo trình Nhập môn thương mại điện tử (Phần 1) - Trần Văn Tùng
art hiển thị 
thông báo không chấp nhận. Nếu đủ khả năng thanh toán, E-cart hiển thị xác 
nhận đơn hàng để khách hàng lưu lại hoặc in ra làm bằng chứng sau này. Sau đó 
người bán tiến hành thực hiện giao hàng như giao kết mà đã đồng ý. 
3.2.6. Thanh toán đối với thương mại điện tử tại Việt Nam 
Điện tử tiêu dùng là danh mục thương mại điện tử được mua nhiều nhất, chiếm 
33,6% doanh thu. Du lịch là danh mục phổ biến thứ hai, chiếm 21,6% doanh số. 
Nền tảng bán hàng thuộc sở hữu của Trung Quốc. Lazada là trang web thương mại 
điện tử có tần suất cao, cũng như Shopee và người tiêu dùng cho nền tảng bán 
hàng tiêu dùng, Sendo. Một phần ba (33 %) người mua sắm điện tử Việt Nam đã 
mua sắm xuyên biên giới và thương mại điện tử quốc tế chiếm 36 % tổng chi tiêu 
thương mại điện tử trong nước.Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản là ba phổ biến 
nhất thị trường. Ít nhất 90 % đầu tư vào ngành thương mại điện tử Việt Nam là từ 
các nguồn quốc tế, đặc biệt là các thương nhân thương mại điện tử Đông Nam Á 
như Lazada và công ty mẹ của nó là Alibaba. Các công ty thương mại điện tử phương 
Tây cũng bắt đầu chú ý đến cơ hội bán hàng Việt Nam đại diện. Năm 2018, Amazon 
tuyên bố hợp tác với Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam trong một động thái 
được hiểu là báo hiệu ý định mở rộng sự hiện diện tại quốc gia này. 
BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 161 
Thẻ là phương thức thanh toán chi phối trong thương mại điện tử Việt Nam, được 
sử dụng cho 34 % giao dịch. Sử dụng thẻ được dự đoán sẽ tăng với tốc độ tăng 
trưởng kép hàng năm từ 15% đến năm 2021, đến thời điểm đó, nó sẽ giữ vị trí của 
mình là nhiều nhất phương thức thanh toán được sử dụng. Thanh toán dựa trên nợ 
có khả năng cao hơn nhiều so với thanh toán bằng thẻ tín dụng: quyền sở hữu thẻ 
ghi nợ ở mức 1,29 trên đầu người so với 0,08 trên đầu người đối với thẻ tín dụng. 
Ví kỹ thuật số được coi là phương thức thanh toán thương mại điện tử phát triển 
nhanh nhất từ nay đến năm 2021, mở rộng 28% mỗi năm để trở thành phương thức 
được sử dụng nhiều thứ hai sau thẻ vào thời điểm đó. Sự gia tăng nhanh chóng của 
điện thoại thông minh cung cấp thanh toán dựa trên ứng dụng phương pháp cũng 
được thiết lập để thúc đẩy việc áp dụng ví kỹ thuật số. Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam báo cáo rằng số lượng giao dịch dựa trên điện thoại di động trong chín tháng 
đầu năm 2017 là 90 triệu, tăng 93% so với cùng kỳ năm 2016, với con số đó dự 
kiến sẽ tiếp tục tăng nhanh trong năm 2019 và hơn thế nữa. Hiện tại, các thương 
hiệu ví kỹ thuật số phổ biến bao gồm PayPal® và các thương hiệu nội địa Momo và 
ZaloPay. Momo tự hào chỉ có dưới 10 triệu người dùng và là ứng dụng ví kỹ thuật 
số được tải xuống nhiều nhất trong năm 2018.ZaloPay là ứng dụng thanh toán của 
ứng dụng truyền thông xã hội phổ biến Việt Nam Zalo. 
Các ứng dụng thanh toán đang được sử dụng để tạo điều kiện cho sự phát triển kỹ 
thuật số của văn hóa phong bì đỏ Việt Nam, theo đó các món quà tiền tệ được trao 
trong các phong bì nhỏ màu đỏ cho gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Momo đã giới 
thiệu chức năng phong bì đỏ kỹ thuật số trên ứng dụng ví kỹ thuật số của mình vào 
năm 2018. Nó đã trở thành một thành công lan truyền và ba triệu phong bì đỏ kỹ 
thuật số đã được trao đổi trong sự kiện khai mạc của nó. Năm 2019, Momo đã tạo 
ra một sự kiện “Ngày tết may mắn” theo phong cách Thứ Sáu Đen cho. Các thương 
nhân thương mại điện tử, theo đó các công ty chấp nhận Momo có thể giảm giá cho 
người tiêu dùng muốn trao đổi quà tặng giữa gia đình và bạn bè. Tiền mặt khi giao 
hàng vẫn là một phần quan trọng của thị trường mua sắm trực tuyến Việt Nam. Do 
đó, tiền mặt chiếm 19% giao dịch thương mại điện tử, nhưng điều này được dự 
đoán sẽ giảm xuống chỉ còn 5% vào năm 2021. Chính phủ Việt Nam đang cố gắng 
162 BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 
giảm số lượng ngừoi thanh toán ra khỏi việc sử dụng tiền mặt. Kể từ năm 2013, 
mua xe hơi và nhà phải được thanh toán bằng các phương thức không dùng tiền 
mặt trong nỗ lực loại bỏ người mua sắm khỏi các khoản thanh toán bằng tiền mặt. 
Trong khi nhiều phương thức thanh toán được sử dụng ở Việt Nam, thẻ đại diện cho 
cách phổ biến nhất để người mua hàng trực tuyến Việt Nam thanh toán cho sản 
phẩm của họ. Người Việt Nam cũng thể hiện sự sẵn sàng mua sắm ở nước ngoài với 
mua hàng nước ngoài chiếm hơn một phần ba tổng chi tiêu thương mại điện tử tại 
Việt Nam. 
Là một nền kinh tế mới nổi hấp dẫn, phần lớn đầu tư vào thị trường thương mại 
điện tử Việt Nam là từ các nguồn quốc tế, đặc biệt là các công ty thương mại điện 
tử Đông Nam Á như Lazada và công ty mẹ của nó là Alibaba. Các công ty thương 
mại điện tử phương Tây cũng bắt đầu chú ý. Năm 2018, Amazon tuyên bố hợp tác 
với Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam trong một động thái được hiểu là báo hiệu 
ý định mở rộng sự hiện diện tại quốc gia này. Tuy nhiên, các thương nhân thương 
mại điện tử quốc tế cần lưu ý về các vấn đề cơ sở hạ tầng của Việt Nam - hậu cần 
vẫn là gánh nặng chính của ngành, đặc biệt là đối với khách hàng ở khu vực nông 
thôn hoặc thành phố hạng hai. 
3.3. CHỮ KÝ SỐ VÀ DỊCH VỤ CHỨNG THỰC CHỮ 
KÝ SỐ 
3.3.1. Tổng quan về chữ ký điện tử và chữ ký số 
Ngày 15/2/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi 
tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số. Ban 
Cơ yếu Chính phủ cũng đã đề xuất xây dựng Tiêu chuẩn Việt Nam về chữ ký số và 
hướng dẫn sử dụng chữ ký số an toàn để trình Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ 
ký ban hành. 
Theo Điều 21 của Quốc Hội Viêt Nam, chữ ký điện tử thì được hiểu như sau: “ Chữ 
ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức 
khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ 
BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 163 
liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của 
người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký. Chữ ký điện tử được xem là bảo 
đảm an toàn nếu chữ ký điện tử đó đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 
của Luật này. Chữ ký điện tử có thể được chứng thực bởi một tổ chức cung cấp dịch vụ 
chứng thực chữ ký điện tử” 
3.3.2. Chứng thực chữ ký điện tử và dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử 
Ở đây không nói đến công nghệ tạo chữ ký số, tiêu chuẩn chữ ký số mà chỉ đề cập 
đến vấn đề được nhiều quốc gia quan tâm là mô hình hệ thống chứng thực chữ ký số 
của một quốc gia được tổ chức như thế nào để vừa đảm bảo an toàn trong giao dịch, 
vừa thuận lợi cho người sử dụng. Mô hình Hệ thống chứng thực chữ ký số dựa trên Cơ 
sở hạ tầng Khóa công khai (PKI) quốc gia của các nước thường có hai xu hướng : 
Thứ nhất, mô hình phân cấp dựa trên một chứng thực gốc duy nhất (mô hình một 
Root CA): Các nước có mô hình này có thể kể đến Hồng Kông. Với số dân ít nên Hồng 
Kông chỉ có một hệ thống cung cấp dịch vụ chữ ký số và chứng thực chữ ký số cho mọi 
hoạt động, Khóa riêng (Private Key) được tích hợp vào thẻ căn cước (ID Card) và Bưu 
điện là đơn vị đóng vai trò Root CA. Mô hình này có ưu điểm chính là dễ quản lý, chi 
phí thấp, thống nhất công nghệ và khi thực hiện giao dịch quốc tế thì chỉ cần một CA 
cầu nối. Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm chính là làm phức tạp hóa các hệ thống 
chính sách áp dụng cho từng loại lĩnh vực cụ thể; khi số lượng thuê bao tăng, lưu lượng 
giao dịch nhiều có thể gây tắc nghẽn. 
Thứ hai, mô hình chứng thực chéo (Mô hình có nhiều Root CA và cầu nối): Có các 
hệ thống chứng thực gốc khác nhau được kết nối, công nhận lẫn nhau qua các cầu nối 
(Pidge CA). Mô hình này có ưu điểm chính là phân định rõ ràng các loại chứng chỉ số 
cho các lĩnh vực cụ thể do vậy đơn giản trong quản lý dịch vụ. Nhược điểm của nó là 
chi phí cao cho công nghệ do phải đầu tư nhiều Root CA và cầu nối; mỗi thuê bao cần 
một chứng chỉ tương ứng của CA thuộc lĩnh vực đó, do vậy một thuê bao sẽ phải có 
nhiều chứng chỉ. 
Về hệ thống PKI Quốc gia của Việt Nam: 
Như trên đã phân tích, các quốc gia tùy thuộc vào tổ chức bộ máy, phương thức 
quản lý nhà nước và điều kiện kinh tế xã hội mà có các mô hình riêng về hệ thống PKI 
164 BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 
Quốc gia. Việt Nam ngoài một số đặc điểm tương tự các nước còn có những đặc điểm 
riêng về hệ thống và phương thức quản lý nhà nước, nhất là các quy định liên quan đến 
sử dụng, cấp phát, quản lý con dấu. Dựa trên các đặc thù này tại khoản 1, Điều 30 của 
Luật Giao dịch điện tử đã quy định có hai loại tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ 
ký điện tử: “Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử bao gồm tổ chức cung 
cấp dịch vụ chữ ký điện tử công cộng và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký 
điện tử chuyên dùng” 
CA Công cộng: Được tổ chức như một hệ thống PKI thống nhất cung cấp dịch vụ CA 
công cộng. Bộ Bưu chính Viễn thông quản lý Root CA này cũng như cấp phép, quản lý 
hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ CA công cộng. Mô hình này phù hợp với quy 
định của Luật Giao dịch điện tử và cũng đã được thể hiện chi tiết trong Nghị định 
26/2007/NĐ-CP. 
CA chuyên dụng: Nội dung này đã được thể hiện trong Nghị định 26/2007/NĐ-CP, 
song theo chúng tôi vấn đề này này cần được nghiên cứu thấu đáo hơn để có thể khả 
thi trong đời sống. Chúng ta đều biết rằng sẽ có một hệ thống chữ ký số và chứng thực 
chữ ký số chuyên dùng cho hoạt động hành chính của các cơ quan trong hệ thống chính 
trị của Việt Nam. Hệ thống này phải được xây dựng riêng, không lẫn với hệ thống CA 
công cộng mô tả trong mục 1. Thực ra đây cũng là mô hình của nhiều quốc gia khác. 
Hệ thống này thực tế sẽ hình thành một Root CA riêng, tạm gọi là Root CA hành chính 
(tương tự như CA Chính phủ của các nước khác). Nghị định 26/2007/NĐ-CP tuy không 
thiết kế thành một khoản riêng trong Điều 4 về các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng 
thực chữ ký số, song trong khoản 4 Điều 6 về Trách nhiệm quản lý nhà nước về dịch 
vụ chứng thực chữ ký số đã quy định “Ban Cơ yếu Chính phủ thành lập và duy trì hoạt 
động của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng phục vụ các cơ 
quan thuộc hệ thống chính trị”. 
Trong thực tế Việt Nam còn một mảng đặc thù nữa là hoạt động nghiệp vụ của các 
các cơ quan Nhà nước, như nghiệp vụ trong lĩnh vực Tư pháp (Điều tra, Kiểm sát, Toà 
án), nghiệp vụ Ngân hàng, nghiệp vụ Tài chính (Thuế, Hải quan, Kho bạc) Đây vừa 
được coi là các giao dịch nghiệp vụ, phi hành chính của nội bộ các cơ quan nhà nước, 
vừa bao gồm các giao dịch nghiệp vụ của cơ quan nhà nước với công dân, nhất là cung 
cấp dịch vụ công trực tuyến (G2B, G2C). Trong lĩnh vực này, cá nhân, tổ chức thuộc hệ 
BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 165 
thống cơ quan nhà nước có thể dùng chữ ký số trong hệ thống CA hành chính giao dịch 
với công dân và doanh nghiệp. Nhưng ngược lại, công dân và doanh nghiệp có thể dùng 
chữ ký số được chứng thực bởi các CA Công cộng để giao dịch với cơ quan Nhà nước 
hay phải sử dụng hệ thống CA Chuyên dụng - Nghiệp vụ của các ngành này? nhất là 
các trường hợp đặc thù như quan hệ giữa doanh nghiệp và cơ quan Thuế, khách hàng 
với Ngân hàng Và như vậy, có thể hình thành một nhóm các Root CA Nghiệp vụ nữa. 
Đây là vấn đề cần được nghiên cứu cả về mặt công nghệ lẫn cơ chế quản lý để chúng 
ta thực sự có một hệ thống CA quốc gia hoạt động hiệu quả. 
Một vấn đề nữa cần được nghiên cứu đó là con dấu trong môi trường điện tử. Khoản 
2, Điều 24 của Luật quy định: Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được 
đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem 
là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức 
đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này và chữ ký điện tử đó 
có chứng thực. 
Quy định tại điều này được thực hiện đối với cơ quan nhà nước khi sử dụng hệ thống 
CA hành chính và Điều 11, Điều 12 của Nghị định đã có hướng giải quyết rất sáng tạo 
cho nội dung này. Nhưng đối với doanh nghiệp và các tổ chức ngoài hệ thống nhà nước 
(thông thường con dấu được cơ quan Công an cấp) thì có thể vận dụng khoản 2, Điều 
24 của Luật khi họ sử dụng dịch vụ của các CA. 
 Hệ thống CA của Việt Nam sẽ không phải là mô hình phân cấp dựa trên một chứng 
thực gốc duy nhất (mô hình một Root CA), song việc sử dụng một chuẩn thống nhất, 
sự kết nối và công nhận lẫn nhau giữa các hệ thống CA là rất quan trọng. Cầu nối 
(Pidge) này hình thành ra sao, nguyên tắc thế nào, ai quản lý cũng là vấn đề đặt ra để 
giải quyết trong thời gian tới. Điều này đòi hỏi có những phân tích khoa học và mang 
tính tổng thể của các cơ quan nhà nước có trách nhiệm. 
Theo Điều 32. Luật thương mại điện tử, các điều kiện để được cung cấp dịch vụ chứng 
thực chữ ký điện tử: 
1. Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử phải có đủ các điều kiện sau 
đây: a) Có đủ nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp và nhân viên quản lý phù hợp với việc 
cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử; b) Có đủ phương tiện và thiết bị kỹ thuật 
166 BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 
phù hợp với tiêu chuẩn an ninh, an toàn quốc gia; c) Đăng ký hoạt động với cơ quan 
quản lý nhà nước về hoạt động cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử. 
2. Chính phủ quy định cụ thể về các nội dung sau đây: a) Trình tự, thủ tục đăng ký 
hoạt động cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử; b) Tiêu chuẩn kỹ thuật, quy 
trình, nhân lực và các điều kiện cần thiết khác đối với hoạt động cung cấp dịch vụ chứng 
thực chữ ký điện tử; c) Nội dung và hình thức của chứng thư điện tử; d) Thủ tục cấp, 
gia hạn, tạm đình chỉ, phục hồi và thu hồi chứng thư điện tử; đ) Chế độ lưu trữ và công 
khai các thông tin liên quan đến chứng thư điện tử do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng 
thực chữ ký điện tử cấp; e) Điều kiện, thủ tục để tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực 
chữ ký điện tử nước ngoài có thể được cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử tại 
Việt Nam; g) Các nội dung cần thiết khác đối với hoạt động cung cấp dịch vụ chứng 
thực chữ ký điện tử. 
BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 167 
TÓM TẮT BÀI 3 
Trong bài này, tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về các hình thức giao 
dịch điện tử trong hoạt động thương mại điện tử của doanh nghiệp, bao gồm: 
- Những khái niệm cơ bản và đặc điểm của hợp đồng điện tử; 
- Những khái niệm cơ bản và đặc điểm của hợp đồng điện tử; 
- Phân loại hợp đồng thương mại điện tử; 
- Ký kết hợp đồng điện tử; 
- Sự khác nhau hợp đồng điện tử với hợp đồng truyền thống; 
- Điều kiện hiệu lực của hợp đồng điện tử; 
- Giới thiệu về thanh toán điện tử; 
- Lợi ích và hạn chế của Thanh toán điện tử; 
- Các hình thức thanh toán điện tử phổ biến và quy trình thanh toán điện tử; 
- Thanh toán đối với thương mại điện tử tại Việt Nam; 
- Tổng quan về chữ ký điện tử và chữ ký số; 
- Chứng thực chữ ký điện tử và dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử. 
168 BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 
CÂU HỎI ÔN TẬP 
Câu 2.1 
. 
BÀI TẬP 
TÌNH HUỐNG 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nhap_mon_thuong_mai_dien_tu_tran_van_tung.pdf