Giáo trình HTML và thiết kế Web (Phần 2)
V.1. Thẻ neo và mối liên kết
Các liên kết siêu văn bản trong một tài liệu HTML là để tham chiếu đến một
tài liệu khác hay một phần tài liệu khác nằm trong tài liệu đó.
Liên kết siêu văn bản gồm có ba phần: giao thức, cái neo và địa chỉ hay URL
Để tạo một mối liên kết thì việc đầu tiên cần làm là thiết lập cái neo. Cặp thẻ
tạo neo là (Anchor). Thẻ này có nhiều thuộc tính bắt buộc phải xác định
rõ, ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn ở phần sau.
V.1.1. Thuộc tính HREF
HREF (Hypertext REFerence – tham chiếu siêu văn bản) được dùng để liên
kết đến:
Một tài liệu khác (external link) hay
Một phần khác nằm trong chính tài liệu đang đọc (internal link)
Giao thức để tham chiếu HREF là HTTP. Nếu là liên kết nội tại – internal link
thì không cần phải có phần giao thức.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình HTML và thiết kế Web (Phần 2)
út Browse. Hộp thoại New Web Site Location sẽ xuất hiện. Sử dụng hộp thoại này để tìm kiếm và mở thư mục nơi ta sẽ lưu trữ các Web site mà ta sẽ làm việc trên đó bằng FrontPage. 5. Mỗi site FrontPage phải được cung cấp thư mục riêng của nó. Để tạo một thư mục cho site được nhập vào này, click nút Create New Folder. Hộp thoại New Folder xuất hiện. 6. Cho thư mục một tên trong Name và click OK. 7. Trong hộp thoại New Web Site Location, click nút Open. Thư mục được liệt kê trong hộp thoại danh sách Specify the Location of the New Website trong Import Web Wizard. 8. Click OK. Import Web Wizard mở ra. VIII.4.3. Chọn một phương pháp import Câu hỏi đầu tiên được hỏi bởi Import Web Site Wizard là cách để truy tìm site, như được trình bày ở hình dưới 152 Hình VIII.32. Import Web Site Wizard Một site có thể được nhập theo năm cách, phụ thuộc vào vị trí của nó và kiểu truy cập nào mà ta có đối với vị trí đó: FrontPage Server Extensions hoặc SharePoint Servicess, một kỹ thuật hiệu quả đòi hỏi một Web server được trang bị với một trong những tính năng này. FPT (File Transfer Protocol), cách phổ biến nhất mà các file được trao đổi trên Internet. HTTP (HyperTExxt Transfer Protocol), một cách để truy tìm các trang Web và các file khác vốn có thể truy xuất trên một mạng cục bộ. WebDAV, một hệ thống tạo nội dung Web ít phổ biến hơn các phương pháp khác. Cách tốt nhất để nhập một site là sử dụng FrontPage Server Extensions hoặc SharePoint Services bởi vì điều này có thể truy tìm các trang và các file khác được đưa vào một Web site ngay cả nếu chúng không được trình bày trực tiếp cho các khách tham quan. Khi ta sử dụng FrontPage để tạo một Web site, nó sẽ làm việc với nhiều file ở hậu cảnh trong suốt quá trình chuẩn bị một trang. Ví dụ, nếu site của ta sử dụng một theme, sẽ có hơn hai chục file đồ họa và các thư mục con của nó. Những file này không bao giờ được biểu diễn trực tiếp cho những người tham quan site của ta. 153 Thay vào đó, chúng được sử dụng bởi FrontPage để tạo các nút hover, đồ họa và định dạng các trang. Bằng cách sử dụng các server extension hoặc SharePoint Servicers, wizard cũng có thể nhập các site con (subsite) – các Web site được chứa bên trong các thư mục của một site khác. (Ví dụ, một Web site trong thư mục C:\My Sites\Sports\baseball). Nếu site để nhập nằm trên một phần mở rộng Web server hoặc SharePoint, ta có thể sử dụng chúng để nhập Web site này và toàn bộ site con của nó: 1. Chọn FrontPage Server Extensions hoặc SharePoint Services. 2. Nhập địa chỉ Web của trang chủ Web thuộc site vào trong trường text Web Site Location. Để đưa vào các site con, chọn hộp kiểm Include Subsites. Nếu site mà ta muốn nhập nằm trên máy tính của ta (hoặc trong một thư mục ở máy tính khác trên mạng của ta), ta có thể sao chép nó từ thư mục đó: 1. Chọn tùy chọn File System và click đúp Browse. Hộp thoại New Publish Location xuất hiện. Sử dụng hộp thoại này để tìm và chọn thư mục chính của Web site (thư mục nơi trang chủ của nó được lưu trữ). 2. Chọn thư mục và click Open. Thư mục được hiển thị trong trường text Web Site Location. 3. Để nhập các site con cùng một lúc (nếu có), chọn hộp kiểm Include Subsites. Nếu site nằm trên một Web server mà ta có thể truy cập bằng cách sử dụng File Transfer Protocol (FTP), một tiêu chuẩn chung cho việc trao đổi các file với một Internet server, ta có thể sử dụng FTP account của ta để nhập site. Sau đây là cách thực hiện: 1. Chọn FTP. 2. Trong trường text Web Site Location, nhập địa chỉ của FTP server. Bởi vì nó đang sử dụng FTP, địa chỉ sẽ có ftp:// đứng trước thay vì http:// 3. Trong trường Root Directory, gõ nhập vị trí và tên của thư mục mà ta chứa trang chủ của site. 154 4. Nếu server đòi hỏi Passive FTP, click hộp kiểm Use Passive FTP. Nếu ta không thể tận dụng các phần mở rộng hoặc SharePoint, thì FTP là lựa chọn tốt nhất trong các tùy chọn còn lại. Nếu site nằm trên một Web server mà không được trang bị các phần mở rộng hoặc SharePoint (hoặc nếu ta không biết), ta có thể lưu các file bằng việc truy tìm chúng từ Web bằng cách sử dụng HTTP. Tùy chọn HTTP không hiệu quả bằng các phần mở rộng, SharePoint, hoặc FTP - chỉ lấy các trang được liên kết công cộng từ trang chủ. Nó cũng bỏ qua các file được sử dụng để tạo các trang đó, chẳng hạn như các theme FrontPage và những file khác vốn được sử dụng để tạo site. Tuy nhiên, biện pháp sau cùng là HTTP có thể được sử dụng để nhập site: 1. Chọn HTTP. 2. Nhập địa chỉ Web của trang chủ thuộc site trong trường text Web Site Location. FrontPage tỷ mỉ về địa chỉ: Thay vì sử dụng một địa chỉ chính chẳng hạn như www.example.com, nó cụ thể hơn và cũng tham chiếu tên của trang chủ (nói cách khác, một địa chỉ nào như www.example.com/index.html). 3. Sau khi chọn một trong những phương pháp import, click Next để tiếp tục. Wizard được cập nhật để phản ảnh sự lựa chọn của ta. 4. Nếu ta đang nhập một site từ một vị trí được bảo vệ bởi password, một hộp thoại Name and Password Required mở ra. Sử dụng các trường Name và Pasword để cung cấp thông tin đăng nhập của ta, và sau đó click OK. Sau khi chọn một phương pháp nhập, click Next. VIII.4.4. Chọn vị trí để lưu site Câu hỏi kế tiếp mà wizard có thể đặt ra là nơi để lưu site. Bởi vì ta đã chọn một thư mục, nó xuất hiện trong trường text trường Local Copy Location, trường này được tắt để ta không thể thay đổi nó. Tuy nhiên, có một cách để thay đổi một thực hiện một thay đổi nếu ta thay đổi ý định và chọn một thư mục khác: 1. Hủy chọn hộp kiểm Add to Current Web Site. Trường Location Copy Location và nút Browse trở nên được chọn. 155 2. Click nút Browse. Hộp thoại New Page Location xuất hiện. Sử dụng hộp thoại này để chọn (hoặc tạo) một thư mục mới nơi mà các file của site sẽ được lưu. 3. Chọn thư mục và click Open. Hộp thoại đóng lại, đưa ta trở về wizard. 4. Chọn hộp Add to Current Web Site. Click Next để đi đến câu hỏi kế tiếp. VIII.4.5. Thu thập thông tin phản hồi từ các khách tham quan Web site của ta Một trong những form dễ nhất để tạo là một trang phản hồi - một vị trí trong site của ta nơi những khách tham quan có thể gửi cho ta một lời nhận xét góp ý riêng tư. Điều này cung cấp một dịch vụ tiện lợi cho những khách tham quan của ta và có một ưu điểm thư hai – nó cho phép ta bỏ qua địa chỉ email của ta từ site của ta. Tại sao điều này lại hữu dụng? Khi ta bắt đầu xuất Web, bất kỳ địa chỉ email mà ta đặt trên một trang sẽ nhanh chóng được phát hiện bởi các spammer - những người tiếp thị email tạp nhạp lắp đầy các inbox bằng những lời đề nghị mang tính thương mại không cần thiết. Để tìm các địa chỉ để thêm vào các danh sách thư tín của họ, cá spammer thường xuyên sử dụng phần mềm để truy tìm các trang trên World Wide Web. Điều mà ta chắc chắn không thể tránh khỏi là site của ta sẽ được tìm thấy nhanh chóng bởi những chương trình này - thường là trong một thời gian ngắn từ một đến hai tuần. Bằng cách đặt một trang phản hồi thay vì địa chỉ của ta trên site của ta, ta sẽ giảm đi lượng spam mà ta nhận được. Để thêm một trang phản hồi vào site của ta, hãy thực hiện các bước sau: 1. Mở site (nếu nó chưa được mở) và trên menu Standard chọn File New. Khung New mở nằm dọc theo cửa sổ biên soạn. 2. Click hyperlink More Page Templates. Hộp thoại Page Templates mở ra, hiển thị các trang mà ta có thể tạo bằng cách sử dụng các template hoặc wizard. 3. Chọn biểu tượng Feedback Form và click OK. Một trang phản hồi tạo sử dụng các màu, text và nền giống với phần còn lại của site. Nó mở trong cửa sổ biên soạn. Một đường chấm chấm biểu thị các đường viền của form. Mỗi phần của form phải được đặt trong đường biên soạn này. Ở đầu trang, 156 một đoạn được tô màu đỏ tía mô tả form và cung cấp một số thông tin hướng dẫn về cách nó được sử dụng. Text này là một lời bình chú, text giải thích xuất hiện chỉ trong cửa sổ biên soạn của FrontPage chứ không phải khi một trang được xem trong một trình duyệt Web. (Để kiểm tra điều này, click nút Preview ben dưới cửa sổ biên soạn). Hình VIII.33. Hiệu chỉnh một trang phản hồi 4. Để xóa lời chú thích, click nó một lần và nhấn phím Delete. 5. Nếu ta muốn thay đổi cách diễn đạt của một câu hỏi, hiệu chỉnh nó như ta thường thực hiện đối với bất kỳ text khác trong FrontPage: Nhấp con trỏ trên trường và sử dụng bàn phím để thêm hoặc loại bỏ các thông tin. 6. Việc định vị và định dạng các thành phần khác nhau của form cũng có thể được thay đổi giống như bất kỳ phần khác của một trang Web. 7. Để xóa bất kỳ phần của form, kéo chuột lên trên nó và nhấn phím Delete Khi một trang phản hồi được tạo ra, FrontPage xác lập nó để lưu các câu trả lời sang file feedback.txt trong thư mục _private của Web site. 157 Để thực thi điều này, ta phải xuất site của ta lên một Web server được trang bị bằng FrontPage Server Extensions hoặc SharePoint Servers, những cải tiến nhằm giúp những người sử dụng FrontPage thêm các tính năng đặc biệt (giống như vậy) vào các site của họ. Vào thời điểm này, ta có thể thay đổi cách thông tin phản hồi của khách tham quan được lưu như thế nào. Nó có thể được lưu sang một file theo nhiều dạng khác nhau hoặc gửi đến ta bằng một email. VIII.4.6. Lưu thông tin phản hồi của khách tham quan sang một file Những câu trả lời được thu thập trên một form có thể được lưu trữ trong một file trên Web server của ta theo ba dạng khác nhau: - Text - Dạng này có thể được xem trong một bộ biên soạn text hoặc được tải trong một chương trình cơ sở dữ liệu và trang bảng tính, chẳng hạn như Microsoft Acccess và Microsoft Excel. - HTML - Dạng này có thể được đọc bằng một trình duyệt. - XML – Đây là một dạng phổ biến cho dữ liệu được tích hợp rộng rãi vào FrontPage 2003 và các chương trình còn lại của bộ Office. Để lưu thông tin phản hồi sang một file, hãy thực hiện những bước sau đây: 1. Click phải ở bất cứ nơi nào trong các đường viền của form - đường chấm chấm được minh họa ban đầu ở hình trên. 2. Chọn Form Properties từ menu ngữ cảnh. Hộp thoại Properties xuất hiện như được minh họa trong hình dưới. 158 Hình VIII.34. Chọn cách lưu thông tin phản hồi của khách 3. Thông tin phản hồi của khách tham quan sẽ được lưu dưới dạng text. Để chọn một dạng khác, click nút Options. Hộp thoại Saving Results xuất hiện. 4. Sử dụng hộp File Format xổ xuống để chọn một dạng cho thông tin phản hồi: Để giúp ta đọc dễ dàng với Microsoft Excel và những chương trình cơ sở dữ liệu khác, hãy chọn Text Data-base Using Comma as a Separator. Điều này tạo một file text với phần mở rộng tên file.csv. Để đọc nó bằng một trình duyệt Web, một lựa chọn tốt là HTML hoặc Formatted Text Within HTML. Điều này tạo ra một file.html vốn sử dụng cùng một định dạng với các trang Web mà ta tạo bằng ForntPage. Để lưu theo dạng XML, chọn XML. Điều này tạo ra một file.xml. 5. Click OK. 6. Để chọn thư mục nơi file sẽ được lưu trữ ở đó, click nút Browse. Hộp thoại Current Web site xuất hiện. Sử dụng hộp thoại này để chọn một trong những thư mục trên site của ta. 7. Click OK để đóng hộp thoại Form Properties. Form sẽ được xác lập để lưu trữ các thông điệp phản hồi trong một file được chỉ định. Nếu file này không hiện hữu khi một người nào đó sử dụng form phản hồi sẽ được tạo ra. 159 VIII.4.7. Nhận thông tin phản hồi của khách tham quan bằng email Thông tin phản hồi cũng có thể được gửi đến ta bằng email thay vì được lưu trong một site của ta. Khi nó được gửi đến, nó trông giống như sau: Message Type: Suggestion Subject: Web Site Username: Sam Snett UserEmail: snett@samspublishing.com ContractRequested: ContacRequested Date: 22 Aug 2003 Time: 21:19:30 Comments: In this thing on? Trong email, các câu trả lời khác nhau trên form phản hồi được hiển thị trên các dòng riêng biệt. Trong ví dụ này, Sam Snett với địa chỉ email snett@samspublishing.com đã gửi một đề nghị với chủ đề “Web Site”. Mail hiển thị ở cuối. Sam đặt câu hỏi, “Is this thing on?” Thư phản hồi bắt nguồn từ một địa chỉ tự động trả lời được thiết lập bởi Web host của ta - ta có thể thay đổi địa chỉ này thành địa chỉ của người đang liên lạc với ta như một mô tả ở phần kế tiếp. Để gửi các trả lời phản hồi đến một địa chỉ email, hãy thực hiện các bước sau: 1. Click chuột phải ở bất cứ nơi nào trong form và chọn Form Properties từ menu tắt vừa xuất hiện. Hộp thoại Form Properties mở ra. 2. Nhập một địa chỉ email trong trường text E-mail Address. Địa chỉ này phải là địa chỉ email của ta hoặc địa chỉ của một người đang trả lời thư cho site của ta. 3. Xóa bất kỳ text trong hộp Filename. Thông tin phản hồi sẽ được gửi bằng thư bằng cách sử dụng dạng của ví dụ SamSnett. Để chọn một dạng khác, click nút Options. Hộp thoại Saving Result xuất hiện. 4. Click tab Email Result để đưa nó lên phía trước. 5. Chọn một dạng trong hộp Email Format thả xuống. Các tùy chọn có sẵn giống như cá tùy chọn dành cho các file. Email phản hồi được cung cấp dòng chủ đề “Data posted to form 1”, theo sau là địa chỉ Web của trang phản hồi. 160 6. Để xác lập một dòng chủ đề khác và giúp dễ dàng tìm những email này, hãy gõ nhập nó trong trường text Subject Line. 7. Để tận dụng địa chỉ email của người đã điền đầy đủ thông tin vào form, nhập text UserEmail trong trường text Reply-To Line và chọn hộp kiểm Form Field Name nằm ngay kế bên nó (xem hình dưới). Hình VIII.35. Hộp thoại Saving Result Click OK để đóng hộp thoại Saving Results, và sau đó click OK để đóng hộp thoại Form Properties. Khi lưu kết quả của một form dưới dạng email, FrontPage có thể hiển thị một hộp thoại chỉ định rằng form không thể gửi kết quả bằng email và hỏi xem địa chỉ email có nên được loại bỏ hay không. Nếu ta biết rằng Web server của ta cung cấp các server Extensions hoặc SharePoint, hãy click No để giữ lại địa chỉ email và bỏ qua lời cảnh báo. Sau khi ta xuất trang phản hồi, nó sẽ hoạt động một cách chính xác. Bài tập 1. Thay vì tự viết các thẻ HTML, hãy dùng công cụ FrontPage để tạo tất cả các trang Web cho các bài tập ở những chương trước. 161 BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT Browser: trình duyệt là chương trình đọc nội dung của file XML và hiển thị thông tin của file lên trên màn hình. Cascading Style Sheets: một ngôn ngữ khai báo cách hiển thị các phần tử trong file XML. Style sheet: là cách gọi tắt của Cascading Style Sheets nhưng nó ám chỉ đến một file chứa các khai báo style.7 HTML: Hyper Text Markup Language. WWW: World Wide Web Markup: Đánh dấu Language: Ngôn ngữ Text: Văn bản Rect: Hình chữ nhật Circle: Hình tròn Polygon: Hình tam giác Transparency: Độ trong suốt 162 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] 24 bài tự học thiết kế Web với Front Page 2003, Thuận Thành, NXB Thanh niên. [2] HTML, DHTML and JavaScript, Aptech WorldWide’s book.
File đính kèm:
- giao_trinh_html_va_thiet_ke_web_phan_2.pdf