FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam

Cải cách thể chế để đáp ứng được yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế là

một trong những nhiệm vụ cấp bách trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của

kinh tế Việt Nam. Bài viết đánh giá những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải cách thể chế để

đáp ứng được yêu cầu của 2 FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia là Hiệp định Đối tác

Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa

Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA). Đồng thời chỉ ra những thách thức của quá trình

hội nhập sâu rộng. Qua đó đề xuất một số giải pháp để kinh tế Việt Nam vượt qua được các

thách thức và đón bắt thành công những cơ hội do hội nhập mang lại.

FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam trang 1

Trang 1

FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam trang 2

Trang 2

FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam trang 3

Trang 3

FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam trang 4

Trang 4

FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam trang 5

Trang 5

FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam trang 6

Trang 6

FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 6760
Bạn đang xem tài liệu "FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam

FTA thế hệ mới và những yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế của Việt Nam
 Việt Nam phải cam kết những vấn đề về lao động, môi 
trường, thông tin, minh bạch, quyền xử lý tranh chấp ở mức cao, cạnh tranh, mua sắm chính 
phủ, đấu thầu, thương mại điện tử, quyền sở hữu trí tuệ... Việt Nam sẽ được xóa bỏ thuế quan 
ngay cho khoảng 78 - 95% dòng thuế đối với hàng hóa thông thường, lộ trình xóa bỏ thuế là 5 
- 10 năm, đến cuối lộ trình giảm thuế, sẽ xóa bỏ đến 98 - 100% số dòng thuế. Đây là mức cam 
kết cao nhất mà Việt Nam nhận được từ các FTA mà Việt Nam đã tham gia ký kết. 
848 
2.2. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) 
Ngày 30 tháng 6 năm 2019 Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh 
Châu Âu (EVFTA) đã được ký kết tại Hà Nội. EVFTA là FTA đầu tiên của EU với một quốc 
gia đang phát triển tại Châu Á, trong lĩnh vực thương mại hàng hóa gần như 100% biểu thuế 
và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ 
trình ngắn (tối đa là 7 năm). EVFTA mang lại việc xóa bỏ hàng rào quan thuế ở mức cao nhất 
và lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp và ngành hàng sản phẩm của Việt Nam. Bên cạnh đó 
Việt Nam cũng phải cam kết thực thi những cam kết về dịch vụ - đầu tư, mua sắm chính phủ 
cũng như những quy định cụ thể về mở cửa thị trường và biện pháp kỹ thuật trong một số lĩnh 
vực. Việt Nam phải nỗ lực thực thi những cam kết về quản trị nhà nước minh bạch, về đảm 
bảo một môi trường kinh doanh và pháp lý ổn định, thông thoáng cho nhà đầu tư của cả hai 
bên nói chung và các doanh nghiệp, nhà đầu tư từ EU nói riêng. 
3. Nỗ lực cải cách thể chế của Việt Nam 
Hai FTA thế hệ mới là CPTPP và EVFTA được ký kết vào năm 2018 và 2019, trong 
đó CPTPP có hiệu lực từ tháng 1 năm 2019 còn EVFTA đã được Nghị Viện Châu Âu phê 
chuẩn ngày 12/2/2020. Việc thực thi 2 FTA thế hệ mới này chưa có đủ độ trễ về thời gian để 
đánh giá về tác động của việc thực thi đối với các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên những 
nỗ lực cải cách thể chế của Việt Nam để ký kết được 2 FTA này và nỗ lực tiếp tục cải cách 
thể chế sau khi ký kết hiệp định là những kết quả rất đáng ghi nhận. 
Nhận thức được tầm quan trọng của việc thực thi các FTA thế hệ mới Ban Chấp hành 
Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06/2016/NQ-TW về thực hiện có hiệu quả 
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta 
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nghị quyết số 06 đã đưa ra quan điểm 
chỉ đạo về thực hiện các FTA thế hệ mới là: ―Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống 
pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản 
lý hiệu quả quá trình thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất 
là trong những lĩnh vực, vấn đề liên quan đến ổn định chính trị - xã hội‖. 
Tiếp theo năm 2018, Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Chỉ thị số 26/2018/CT-TTg về 
đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn. Chỉ thị số 26 đã nêu 
lên định hướng về phát huy vai trò chính phủ kiến tạo phát triển, từng bước hoàn thiện thể chế 
pháp luật, tạo lập môi trường kinh doanh thực sự minh bạch, bình đẳng và cạnh tranh lành 
mạnh cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Gắn việc thực thi đầy đủ 
các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế với quá trình rà soát, bổ sung và hoàn thiện pháp luật và 
thể chế trong nước, hài hòa hóa pháp luật của Việt Nam với các cam kết quốc tế. 
Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 06 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, 
Chính Phủ đã ban hành Nghị quyết 38/2017/NQ-CP về ban hành Chương trình hành động về 
thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội 
trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. 
849 
Nghị quyết 38 đã đề ra những nội dung cụ thể nhằm nâng cao năng lực thực hiện hiệu 
quả hội nhập kinh tế quốc tế như: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, 
xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trọng 
tâm là Chính phủ kiến tạo, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển 
nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, nâng 
cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế. 
Tiếp theo, năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 121/2019/QĐ-TTg 
về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình 
Dương (CPTPP). Quyết định 121 đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và cách thức tổ chức thực hiện. 
Về nhiệm vụ Quyết định 121 đã đề ra 5 nhiệm vụ chủ yếu gồm: 
1. Công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về Hiệp định CPTPP và thị trường của 
các nước tham gia Hiệp định CPTPP. 
2. Công tác xây dựng pháp luật, thể chế. 
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển nguồn nhân lực. 
4. Chủ trương và chính sách đối với tổ chức công đoàn và các tổ chức của người lao 
động tại cơ sở doanh nghiệp. 
5. Chính sách an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 
Điều này thể hiện những nỗ lực và quyết tâm rất lớn của Chính Phủ trong việc kiến tạo 
môi trường pháp lý thuận lợi để thực hiện CPTPP và EVFTA. 
4. Những thách thức của quá trình hội nhập sâu rộng 
Hội nhập không phải là một bức tranh toàn điểm sáng, hội nhập luôn mang đến cho 
kinh tế Việt Nam cả cơ hội và những thách thức song hành. Trong bối cảnh Việt Nam đã tham 
gia 2 FTA thế hệ mới nếu Việt Nam không đủ nỗ lực và quyết tâm để vượt qua các thách thức 
thì cơ hội sẽ biến thành nguy cơ. Hiện nay thể chế kinh tế của Việt Nam đang gặp phải một số 
thách thức sau: 
Một là, chính sách thương mại của Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc đáp 
ứng các cam kết hội nhập. 
Việt Nam chưa xây dựng được khung chính sách thương mại chủ động và linh hoạt để 
giúp cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đủ năng lực vươn mình ra thị trường thế giới. 
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn bị thua thiệt và lung 
túng nhiều trong các tranh chấp thương mại, xử lý các biện pháp phòng vệ thương mại và khó 
vượt qua được các rào cản thương mại ở những thị trường đẳng cấp như EU và Mỹ. Tính hết 
năm 2018 đã có 144 vụ việc phòng vệ thương mại (PVTM) do nước ngoài khởi xướng điều 
tra, áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (trong đó năm 2018 đã có 19 vụ việc 
mới được khởi xướng). Hiện nay, Hoa Kỳ vẫn là quốc gia điều tra PVTM nhiều nhất với hàng 
hóa xuất khẩu của Việt Nam (27 vụ việc), tiếp đến là Thổ Nhĩ Kỳ (21 vụ việc), Ấn Độ (17 vụ 
việc) và EU (14 vụ việc).Trong số 144 vụ việc điều tra PVTM, có 81 vụ việc về chống bán 
phá giá, 30 vụ việc tự vệ có liên quan đến hàng hóa Việt Nam, 14 vụ việc trợ cấp và 19 vụ 
850 
việc chống lẩn tránh thuế. So với số lượng 13 vụ việc PVTM được khởi xướng năm 2017 thì 
số lượng các vụ việc PVTM đã tăng thêm xấp xỉ 50% trong năm 2018. 
Các biện pháp tự vệ trong hoạt động thương mại của Việt Nam chưa bảo vệ được các 
ngành sản xuất trong nước. Một trong những nguyên nhân chính của hạn chế này là do các 
nội dung quy định biện pháp tự vệ trong hoạt động thương mại quốc tế còn chung chung, 
những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành chậm và chưa đồng bộ. Khả năng áp dụng vào 
cuộc sống của các biện pháp PVTM thấp do hạn chế về cơ chế, số lượng và chất lượng của 
đội ngũ cán bộ thực hiện. Các biện pháp tự vệ trong hoạt động thương mại quốc tế chưa hỗ 
trợ được nhiều cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Pháp luật Việt Nam chưa thiết lập 
được cơ chế hữu hiệu để tăng cường kiểm soát chất lượng, xuất xứ, chống gian lận thương 
mại và có chế tài nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu vi phạm để đảm 
bảo uy tín của Việt Nam trong quan hệ thương mại quốc tế. 
Hai là, năng lực thực thi pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam kém. 
Kể từ thời điểm năm 1990 khi Luật doanh nghiệp tư nhân đầu tiên được ban hành, 
doanh nghiệp Việt Nam đã có 19 năm hình thành và phát triển, trong bối cảnh Việt Nam đã 
tham gia Việt Nam đã tham gia hai FTA thế hệ mới quan trọng là CPTPP và EVFTA nhưng 
các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa ―Lớn‖ để đáp ứng được yêu cầu của hội nhập, doanh 
nghiệp Việt quy mô nhỏ bé, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu và năng lực thông tin hạn 
chế. Những điều này đã ảnh hưởng đến năng lực thực thi pháp lý của doanh nghiệp. 
Theo Báo cáo triển vọng phát triển Châu Á của Ngân hàng Phát triển Châu Á, hiện 
nay mới chỉ có 21% các DNNVV của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu so với 
30% của Thái Lan và 46% của Malaysia. Chi phí đầu tư cho KH&CN của doanh nghiệp Việt 
Nam hiện chỉ chiếm từ 0,2 đến 0,3% tổng doanh thu rất thấp so với các nước phát triển và có 
tới gần 60% doanh nghiệp đang sử dụng các công nghệ có tuổi đời trên sáu năm. Năng lực 
cạnh tranh của doanh nghiệp yếu kéo theo năng lực thực thi pháp luật kém, nhiều doanh 
nghiệp gian lận trong kinh doanh và làm ăn theo kiểu cò con, không có tư duy hội nhập, 
không có những hoài bão lớn trong kinh doanh, chạy theo cái lợi trước mắt mà không có ý 
định tạo dựng một sự nghiệp lâu dài, bền vững. 
Ba là, do bị hạn chế về năng lực thông tin nên các doanh nghiệp chưa “chuẩn hóa” 
được theo các thông lệ quốc tế. 
Có một thực tế đáng buồn là ngay cả những doanh nghiệp xuất nhập khẩu là đối tượng 
chịu tác động trực tiếp của CPTPP và EVFTA khi khảo sát với 225 doanh nghiệp có tới 49% 
trả lời không biết hoặc chỉ hiểu rất ít về các FTA thế hệ mới. Chỉ có 20 doanh nghiệp biết rõ 
về các FTA, còn chủ yếu là biết một ít (103 doanh nghiệp) hoặc ở mức trung bình (88 doanh 
nghiệp). Về vấn đề vận dụng các FTA vào hoạt động XNK của doanh nghiệp, có hơn 200 
doanh nghiệp biết về các FTA thế hệ mới, nhưng chỉ có 124 doanh nghiệp là có vận dụng các 
FTA này. Nguyên nhân được các doanh nghiệp phản ánh cho việc không vận dụng các FTA 
thế hệ mới cũng rất đa dạng: doanh nghiệp thiếu thông tin, cho là không cần thiết, cho rằng 
851 
khối lượng giao dịch nhỏ nên không cần, trong đó có nhiều doanh nghiệp nêu ra lý do là đối 
tác không yêu cầu. 
5. Kết luận và khuyến nghị 
Có thể thấy những cơ hội mà CPTPP và EVFTA mang lại là rất lớn nếu Chính Phủ và 
các doanh nghiệp Việt Nam có đủ năng lực để đón bắt những cơ hội này. Để đón bắt được cơ 
hội đòi hỏi hai chủ thể quan trọng nhất của nền kinh tế là Chính Phủ và doanh nghiệp cần phải 
tiếp tục cải cách để ―Lớn lên‖, cụ thể: 
- Đối với doanh nghiệp cần: 
+ Để gỡ bỏ rào cản năng lực KH & CN hạn chế, mỗi doanh nghiệp cần đổi mới tư duy 
kinh doanh, không nên làm ăn chụp giật và chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt. Nên có một ―tầm 
nhìn vươn tầm ra thế giới‖ bằng cách ứng dụng KH&CN vào sản xuất, coi KH&CN là nền 
tảng để doanh nghiệp phát triển bền vững. Doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi liên kết về 
KH&CN giữa các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước 
ngoài để phát triển. Dành một phần lớn trong tổng doanh thu để đổi mới dây chuyền sản xuất 
và triển khai các hoạt động R&D. 
+ Doanh nghiệp cần tuân thủ pháp luật khi thực hiện hành vi kinh doanh, thực hiện 
đúng các thủ tục tài chính, công khai minh bạch trong quản lý điều hành, quản trị nội bộ. Các 
doanh nghiệp nên tự ý thức xây dựng cho mình đạo đức nghề nghiệp, văn hóa kinh doanh, 
tuân thủ các quy định của pháp luật, có tư duy vươn tầm ra thế giới và đóng góp cho xã hội 
công bằng và chính đáng. 
+ Để nâng cao năng lực thông tin, các doanh nghiệp cần đổi mới tư duy kinh doanh 
thích nghi với bối cảnh mới. Chủ động tìm hiểu, nắm bắt thông tin và linh hoạt trong việc tiếp 
cận, tận dụng cơ hội. Doanh nghiệp Việt cần ―tự mình nâng mình lên‖ bằng cách tự mình 
trang bị cho mình những tri thức cần thiết về thị trường thế giới, kết nối với mạng phân phối 
toàn cầu và học cách nâng cao năng lực thông qua những thực thi của CPTPP và EVFTA. 
- Đối với Chính Phủ cần: 
+ Tiếp tục cải cách mạnh mẽ thể chế theo hướng đồng hành, tạo ra những lợi ích để 
chia sẻ với cộng đồng doanh nghiệp. Đưa doanh nghiệp vươn tầm ra thế giới bằng những thể 
chế ưu tiên, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới KH& CN, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 
+ Xây dựng thể thế hỗ trợ DNNVV trong việc nâng cao năng lực tài chính, tiếp cận 
với các thông tin về CPTPP và EVFTA trên cả hai phương diện cơ hội và thách thức. 
Trong đó chú trọng đến thể chế hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nắm bắt cơ hội do CPTPP 
và EVFTA mang lại. 
+ Cần xây dựng một lộ trình cụ thể cho từng giai đoạn phát triển nền kinh tế thị 
trường: giai đoạn đầu tạo lập nền tảng để cho thị trường phát triển trên cơ sở tự do hóa 
thương mại, giá cả, tài chính, giai đoạn hai xây dựng các khung khổ pháp lý cho thị 
trường phát triển dựa trên nền tảng của tự do hóa, giai đoạn ba xây dựng cơ chế giám sát 
cho việc thực thi pháp luật. 
852 
+ Trên góc độ thực thi luật, cần xây dựng một Chính phủ liêm chính, hành động và minh 
bạch, thiết lập những chế tài xử phạt nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm pháp luật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Công Thương (2019), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2018, Nhà xuất bản 
Công Thương 2019. 
2. Lê Kim Nguyệt (2019) Thách thức đối với pháp luật môi trường Việt Nam dưới 
góc nhìn tham chiếu với CPTPP‖, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 5. 
3. Nhật Minh (2019), Cạnh tranh nhờ khoa học và công nghệ, Nhân dân điện tử - 
https://www.nhandan.com.vn/khoahoc-congnghe/item/39594702-canh-tranh-nho-khoa-hoc-
va-cong-nghe.html 
4. Ngô Văn Vũ, Nguyễn Thùy Dương, Phạm Văn Nghĩa (2019), Tác động của Hiệp 
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đối với Việt Nam‖, Tạp chí Khoa 
học Xã hội Việt Nam, số 5. 
5. Nguyễn Hải Yến, Nguyễn Minh Hằng 2019, Hoàn thiện pháp luật về các tổ chức 
tín dụng theo cam kết trong Hiệp định đối tác toàn diện, tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Tạp 
chí Luật học số 1. 
6. Nguyễn Thị Tình, Đỗ Phương Thảo (2018), Nguyên tắc, điều kiện tham gia bảo 
hiểm, cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong bối cảnh Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP, Tạp 
chí Luật học số 2. 
7. Nguyễn Ngọc Hà (2019), Tham gia FTA thế hệ mới: Lợi thế, thách thức và vấn đề 
đặt ra cho Việt Nam - 
loi-the-thach-thuc-va-van-de-dat-ra-cho-viet-nam-309173.html 
8. Thế Vinh (2019), Cảnh báo doanh nghiệp chậm hiểu FTA thế hệ mới, Tạp chí Tài 
chính - 
the-he-moi-301925.html 
9. Thời báo Tài Chính Việt Nam Online (2020), Cải cách thể chế chìa khóa để hội 
EVFTA thành công, 
che-chia-khoa-de-hoi-nhap-evfta-thanh-cong-82459.aspx 
10. Thư viện pháp luật - https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Chi-thi-26-
CT-TTg-2018-day-manh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-theo-huong-hieu-luc-va-hieu-qua-hon-
393297.aspx 
11. Thư viện pháp luật - https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/nghi-
quyet-38-nq-cp-thuc-hien-co-hieu-qua-tien-trinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-2017-347295.aspx 
12. Thư viện pháp luật https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Quyet-dinh-
121-QD-TTg-2019-phe-duyet-Ke-hoach-thuc-hien-Hiep-dinh-CPTPP-405989.aspx 

File đính kèm:

  • pdffta_the_he_moi_va_nhung_yeu_cau_dat_ra_doi_voi_cai_cach_the.pdf