Động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm xây dựng và kiểm định mô hình các yếu tố ảnh hưởng
đến động lực NCKH của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Áp dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng, phân tích dữ liệu từ một mẫu 183 giảng
viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, kết quả nghiên cứu cho thấy, động lực
NCKH của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội chịu tác động bởi ba yếu
tố, đó là: (1) Sự thích thú NCKH, (2) Nhu cầu tự thân, (3) Nhận thức về khả năng
NCKH tốt. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm
tạo động lực NCKH cho giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trong thời
gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
thang đo Bảng 1. Độ tin cậy của thang đo TT Nhân tố Số biến quan sát Cronbach’s Alpha 1 Nhu cầu tự thân 4 0,835 2 Nhận thức lợi ích NCKH 6 0,867 3 Sự thích thú NCKH 4 0,674 4 Nhận thức về khả năng NCKH 6 0,778 5 Động lực NCKH 3 0,661 Tổng 23 Kết quả EFA thu được 23 biến quan sát đo lường 04 biến độc lập, được trích thành 04 yếu tố tại giá trị Initial Eigenvalues lớn hơn 1 đó là: Nhận thức lợi ích của NCKH, Sự thích thú NCKH, Nhận thức về khả năng NCKH và Nhu cầu tự thân. Tổng phương sai giải thích được khi nhóm nhân tố được rút ra là 62,441% (> 50%). Bốn biến độc lập đều có các biến quan sát cùng tải về một nhân tố độc lập tương ứng với giá trị Factor Loading đảm bảo yêu cầu lớn hơn 0,3. Sau khi phân tích EFA, thang đo được đánh giá độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s Alpha. Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo cho thấy, hầu hết giá trị Cronbach’s Alpha đều lớn hơn giá trị yêu cầu là 0,65 (bảng 1). Các giá trị Cronbach’s Alpha nếu loại biến đều thấp hơn giá trị Cronbach’s Alpha. Các giá trị tương quan biến tổng đều lớn hơn 0,3. Do đó, các thang đo được sử dụng có độ tin cậy cao. Thống kê mô tả mẫu theo các biến trong mô hình nghiên cứu Kết quả thống kê mô tả mẫu theo các biến cho thấy, giảng viên tham gia điều tra đều có nhận thức tương đối tốt về lợi ích của việc NCKH (điểm trung bình đạt 3,85 trên thang Likert 5 điểm). Tuy nhiên, sự thích thú NCKH và động lực NCKH của giảng viên đều có điểm trung bình ở mức 3,4 trên thang Likert 5 điểm). Ngoài ra, giảng viên tham gia điều tra đều có nhận thức về khả năng NCKH của họ (điểm trung bình đạt 3,1 trên thang Likert 5 điểm) và có định hướng NCKH để khẳng định sự vượt trội (Nhu cầu tự thân), tuy nhiên điểm trung bình chỉ ở mức 2,9 trên thang Likert 5 điểm) (bảng 2). Bảng 2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu TT Các biến N Thấp nhất Cao nhất Trung bình Độ lệch chuẩn 1 Nhận thức lợi ích của NCKH 181 1,00 5,00 3,8573 0,58903 2 Sư thích thú NCKH 180 1,00 5,00 3,4833 0,49197 3 Nhu cầu tự thân 182 1,00 4,75 2,9341 0,67496 4 Nhận thức về khả năng NCKH tốt 178 1,00 4,17 3,1330 0,46007 5 Động lực NCKH 181 1,00 5,00 3,4457 0,48841 Kiểm định giả thuyết nghiên cứu Kết quả phân tích định lượng cho thấy, giá trị hệ số xác định R2 điều chỉnh = 0,394 có nghĩa là các biến độc lập trong mô hình giải thích 39,4% sự biến thiên của biến phụ thuộc. Ngoài ra, kết quả phân tích phương sai ANOVA cho thấy giá trị F = 14,671; giá trị Sig. = 0,000 (< 0.05) thể hiện mối liên hệ tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc đảm bảo độ tin cậy 95%. Như vậy, mô hình nghiên cứu phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được. Kết quả hệ số hồi quy cho giá trị Sig. của biến Sự thích thú NCKH, Nhu cầu tự thân, Nhận thức về khả năng NCKH lần lượt là 0,000; 0,048 và 0,043 (< 0,05). Điều này thể hiện các biến Sự thích thú NCKH, Nhu cầu tự thân, Nhận thức về khả năng NCKH có tác động đến động lực NCKH của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội và sự tác động của ba biến này là tích cực (Beta lần lượt nhận các giá trị dương là 0,462; 0,144 và 0,084) trong đó, mức độ tác động của Sự thích thú NCKH đến động lực NCKH của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội là lớn nhất (bảng 3). Bảng 3. Kết quả hồi quy Biến Beta Sự thích thú NCKH 0,462*** Nhu cầu tự thân 0,144* Nhận thức về khả năng NCKH 0,084* R2 điều chỉnh 0,394 F 14,671*** N = 303; p ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001 Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa 4.2. Bình luận Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố thuộc về bản thân giảng viên (gồm: Sự thích thú NCKH, Nhu cầu tự thân, Nhận thức về khả năng NCKH của bản thân) có tác động đến động lực NCKH của họ. Mối quan hệ giữa các yếu tố này với động lực NCKH của giảng viên như sau: Sự thích thú NCKH làm tăng động lực NCKH của giảng viên. Mức độ tác động của Sự thích thú NCKH đến động lực NCKH của giảng viên là lớn nhất (Beta = 0,462). Trong nghiên cứu này, yêu thích NCKH của giảng viên chính là yếu tố quan trọng nhất làm gia tăng động lực NCKH của họ. Nhắc đến NCKH người ta thường nghĩ đó là một công việc khó nhọc, vất vả, hao tốn nhiều thời gian và công sức của các nhà khoa học. Nhà nghiên cứu thường làm việc lặng lẽ một mình. Mặc dù vậy, NCKH khó đem lại XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 44.2018 130 KINH TẾ sự giàu có cho nhà nghiên cứu. Nếu không đam mê, yêu thích công việc thì khó có thể phát huy hết khả năng và vượt qua được những khó khăn, trở ngại. Vì vậy, để tạo động lực NCKH thì sự yêu thích và đam mê NCKH là yếu tố quan trọng nhất trong số các yếu tố trong mô hình nghiên cứu này. Khi đã say mê NCKH, được làm điều mình thích thì bao nhiêu khó khăn, vất vả cũng không thể cản trở, tất cả những khó khăn phía trước sẽ đều trở thành bí ẩn dành riêng cho niềm say mê khám phá tri thức khoa học. Thực tế cho thấy, cũng giống như giảng viên của các trường đại học khác, giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội dành phần lớn thời gian, sức lực cho hoạt động giảng dạy, mà chưa chú trọng đến hoạt động NCKH. Nhiều giảng viên chưa thấy rõ được NCKH là một nhiệm vụ quan trọng của giảng viên. Nguyên nhân có thể do, nguồn thu nhập chính của giảng viên đại học hiện nay chủ yếu từ hoạt động giảng dạy trong khi công việc NCKH vừa tốn nhiều thời gian, công sức mà thu nhập lại chưa tương xứng. Do vậy, NCKH bị “lãng quên”, hoặc chưa phải là niềm đam mê đối với nhiều giảng viên trong trường. Nhu cầu tự thân làm tăng động lực NCKH của giảng viên. Kết quả phương trình hồi quy cho thấy khi Nhu cầu tự thân của giảng viên tăng (hay giảm) 01 đơn vị thì động lực NCKH sẽ tăng (hay giảm) trung bình 0,144 đơn vị, tức là khi giảng viên định hướng NCKH để đạt mục tiêu vượt trội so với người khác thì động lực NCKH của họ sẽ tăng lên. Tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, từ năm học 2013-2014 đến nay, đã có nhiều thay đổi lớn đặc biệt là việc ghi nhận, khen thưởng kết quả hoạt động NCKH của giảng viên, chẳng hạn như: tiêu chí hoàn thành nhiệm vụ NCKH đã được đưa vào để đánh giá, xếp loại viên chức trong năm học, đây cũng là tiêu chí quan trọng để giảng viên đạt danh hiệu thi đua và bằng khen các cấp; hay giảng viên có thành tích hai năm liên tục sẽ được đưa đi học tập ở nước ngoài... Nhờ vào những thay đổi này mà hoạt động NCKH của giảng viên trong nhà trường đã tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Như vậy, thành tích NCKH của giảng viên được nhà trường ghi nhận và vinh danh giúp giảng viên cảm nhận được sự vượt trội của bản thân so với đồng nghiệp, từ đó động lực NCKH của họ tiếp tục được củng cố và gia tăng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đã cho thấy, định hướng NCKH để vượt trội so với đồng nghiệp của giảng viên còn ở mức dưới trung bình. Điều này làm cho động lực NCKH của giảng viên nhà trường chưa được thúc đẩy. Vì vậy, trong thời gian tới nhà trường cần có giải pháp nhằm gia tăng Nhu cầu tự thân, định hướng NCKH để vượt trội so với người khác của giảng viên, từ đó có thể gia tăng động lực NCKH của họ. Nhận thức về khả năng NCKH làm tăng động lực NCKH của giảng viên. Theo kết quả phương trình hồi quy, khi Nhận thức về khả năng NCKH của giảng viên càng tốt thì động lực NCKH càng tăng. Để có động lực tham gia NCKH thì có đam mê thôi chưa đủ, giảng viên cần phải biết cách NCKH. Khi giảng viên đã có đam mê NCKH, có ý tưởng nghiên cứu, họ biết phải làm như thế nào để triển khai ý tưởng nghiên cứu. Từ đó, động lực NCKH của họ mới thực sự mạnh mẽ. Tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, số lượng giảng viên có phương pháp NCKH tốt chưa nhiều, phần lớn giảng viên chưa nắm vững phương pháp NCKH, cách tìm tài liệu tham khảo, thậm chí, chưa nắm vững cách thức xây dựng đề cương, cách trình bày một công trình NCKH. Điều này dẫn đến việc mắc phải một số lỗi thường gặp trong NCKH như: phạm vi nghiên cứu rộng, nặng tính lý thuyết, đối tượng nghiên cứu không rõ ràng, từ ngữ chuyên môn chưa chính xác, đề tài lựa chọn chưa sâu, chưa cụ thể, chưa sát với thực tiễn... Bên cạnh đó, trong quá trình NCKH, giảng viên còn e ngại khi đưa ra quan điểm cá nhân của riêng mình. Vì vậy, trong thời gian tới nhà trường cần có giải pháp nâng cao năng lực NCKH của giảng viên. 5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN Dựa vào kết quả nghiên cứu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tạo động lực NCKH cho giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội như sau: Thứ nhất, tạo dựng niềm đam mê NCKH cho giảng viên (i) Để giảng viên có thái độ yêu thích, đam mê NCKH phải bắt đầu từ nhận thức, vì vậy nhà trường cần tích cực tuyên truyền để giảng viên nhận thức đúng vai trò của NCKH. Hiện nay, bất cứ một trường đại học nào cũng đều có hai nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đó là: đào tạo và NCKH. Đây là hai hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, gắn kết chặt chẽ với nhau và hỗ trợ cho nhau. NCKH tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy trên lớp. Ngược lại, công tác giảng dạy phản ánh kết quả của hoạt động NCKH. Hai hoạt động này là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược của nhà trường, trong đó việc đẩy mạnh giảng viên tích cực tham gia các hoạt động NCKH là một trong những biện pháp quan trọng - bắt buộc - cần thiết để hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng khắt khe của xã hội. Do đó, cùng với hoạt động giảng dạy, NCKH là thước đo năng lực chuyên môn của giảng viên. (ii) Tạo môi trường nuôi dưỡng đam mêm NCKH thông qua việc: quy định về giờ giảng dạy cân đối với giờ NCKH (theo xu hướng giảm khối lượng giảng dạy, để giảng viên dành nhiều thời gian hơn cho NCKH). Tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo thu nhập cho giảng viên. Tổ chức tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm NCKH với những giảng viên có đam mê, tình yêu khoa học thể hiện qua số lượng đề tài, công trình nghiên cứu của họ. Từ đó, khơi dậy và lan tỏa niềm đam mêm NCKH cho đội ngũ giảng viên trong nhà trường. Tổ chức tập huấn về phương pháp NCKH, tư duy phản biện, tư duy nghiên cứu, kỹ năng công bố công trình khoa học, đạo đức của người làm khoa học... trên cơ sở tận dụng nguồn nhân lực có trình độ và thâm niên công tác NCKH trong trường nhằm nâng cao kỹ năng NCKH cho mọi giảng viên. Có định hướng nghiên cứu cụ thể cho giảng viên như: nghiên cứu ứng dụng trong công tác quản lý, nghiên cứu ứng dụng trong đào tạo... Tổ chức bồi dưỡng chuyên đề về Phương pháp nghiên cứu cho giảng viên trong toàn trường ECONOMICS-SOCIETY Số 44.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 131 tối thiểu 3 tháng 1 lần để cập nhật kiến thức, phương pháp NCKH. Thường xuyên tổ chức seminar theo chủ đề NCKH chuyên sâu với các hướng trong ngành nghề và lĩnh vực liên quan với sự tham gia của các nhà nghiên cứu trong và ngoài trường. Tổ chức buổi giới thiệu kết quả, sản phẩm, lợi ích từ công trình, đề tài NCKH của giảng viên trong và ngoài trường. Đầu tư kinh phí đáng kể cho các hoạt động bồi dưỡng, thúc đẩy nghiên cứu cho đội ngũ giảng viên, cán bộ, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên. Tổ chức thường niên hội nghị khoa học quốc gia, ngày hội sinh viên NCKH, hội nghị khoa học quốc gia dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh với sự tham gia của đông đảo các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên trong và ngoài trường. Hình thành các giải thưởng khoa học công nghệ với quy mô khác nhau nhằm tạo ra một môi trường khoa học năng động. Có cơ chế khuyến khích giảng viên tham gia NCKH thông qua khen thưởng về vật chất và tinh thần để tôn vinh những cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động NCKH, có kết quả nghiên cứu nổi bật hay công bố bài báo khoa học xuất sắc... Cơ chế khen thưởng cần rõ ràng, theo định mức để tạo ra sự đa dạng, hấp dẫn cho hoạt động này góp phần tạo hứng thú, say mê NCKH, đồng thời, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy hoạt động NCKH cho giảng viên trong nhà trường. Thứ hai, xây dựng định hướng NCKH, khẳng định bản thân cho giảng viên (i) Ghi nhận thành tích NCKH của giảng viên. Thông qua đó, năng lực của giảng viên không những được khẳng định mà giảng viên còn thấy được những hạn chế trong tri thức của mình để kịp thời bổ sung. (ii) Đề xuất các chế độ khen thưởng kịp thời đối với giảng viên tham gia NCKH, đặc biệt là các giảng viên đạt thành tích cao, như: tặng giấy khen, tiền thưởng cho các bài báo công bố trong danh mục ISI, SCOPUS Thứ ba, nâng cao khả năng NCKH cho giảng viên Nhà trường cần ban hành quy định yêu cầu bắt buộc tham gia hoạt động khoa học dưới nhiều hình thức (số bài báo, số đề tài NCKH, ít nhất là 30% định mức thời gian làm việc dành cho hoạt động NCKH) đối với tất cả cán bộ khoa học, giảng viên có học hàm, học vị./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Văn Đông (2018). Hoạt động khoa học và công nghệ trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Hội nghị khoa học Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, Đại học Công nghiệp Hà Nội, 2/2018. 2. Nguyễn Đình Thọ, 2011. Phương pháp NCKH trong kinh doanh. NXB Lao động xã hội. 3. Nguyễn Minh Đức, 2013. Nâng cao năng lực nghiên cứu của giảng viên để thực hiện vai trò sáng tạo tri thức của các trường đại học. NXB Thanh niên. 4. Nguyễn Thị Nguyệt Dung và cộng sự, 2015. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tham gia NCKH của giảng viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Báo cáo NCKH cấp trường, Đại học Công nghiệp Hà Nội. 5. Phan Thị Tú Nga, 2011. Thực trạng và các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH của giảng viên đại học Huế. Tạp chí khoa học Đại học Huế, số 68, 67-78. 6. Trần Mai Ước, 2013. NCKH của giảng viên - yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường đại học trong giai đoạn hiện nay. Bản tin khoa học và giáo dục, trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, 4-7. 7. Deutsch, 1985. Interest in reading: a test of kintsch’s model. University microfilms international. 8. Kerlinger FN., 1986. Foundation of Behavioural Reseach. 3rded, New York: Holt, Rinehart & Winston. 9. Maarten Vansteenkiste và cộng sự, 2010. Intrinsic Versus Extrinsic Goal Contents in SelfDetermination Theory: Another Look at the Quality of Academic Motivation. Educational Psychologist, 41(1): 19-31. 10. Mimi Bong, 2010. Academic Motivation in Self-Efficacy, Task Value, Achievement Goal Orientations, and Attributional Beliefs. The Journal of Educational Research: 287-297. 11. John G. Nicholls và cộng sự, 1989. Individual differences in academic motivation: perceived ability, Goals, Beliefs, and Values. Learning and Individual Differences, Volume 1, Number 1: 63-84. 12. Wright Bradley E., 2003. Toward Understanding Task, Mission and Public Service Motivation: A Conceptual and Empirical Synthesis of Goal Theory and Public Service Motivation.
File đính kèm:
- dong_luc_nghien_cuu_khoa_hoc_cua_giang_vien_truong_dai_hoc_c.pdf