Đôi điều suy ngẫm về học thuyết của Các Mác
Học thuyết của Các Mác là một hệ thống tri thức lý luận đồ sộ về nhiều lĩnh vực, trong đó tập trung
chủ yếu về kinh tế - chính trị học và triết học. Là một giảng viên có nhiều năm giảng dạy và nghiên
cứu môn học “Phương pháp nghiên cứu tình hình kinh tế và thị trường hàng hóa tư bản chủ nghĩa” và
sau này là môn học Marketing, bằng những trải nghiệm của mình, tôi nhận thấy những tri thức lý luận
trong học thuyết của C. Mác có quan hệ mật thiết với các môn khoa học khác và đem lại những giá trị
phương pháp luận quan trọng, nên đã vận dụng chúng để xem xét, lý giải những vấn đề thuộc lĩnh vực
nghiên cứu của mình. Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ đôi điều suy ngẫm về học thuyết của C. Mác
trong ba vấn đề cốt lõi của Marketing cũng như việc ứng dụng học thuyết của ông để nghiên cứu những
lĩnh vực khoa học khác.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đôi điều suy ngẫm về học thuyết của Các Mác
bản chất và hiên tượng Có thể khẳng định rằng, không quá nhiều người có thể đưa ra khái niệm đầy đủ về tình hình kinh tế (Economic conjuncture) mặc dù trong cuộc sống người ta vẫn thường nghe, nói, đọc và viết cụm từ này. Những nhà nghiên cứu về tình hình kinh tế đã đưa ra khái niệm: tình hình kinh tế đó là trạng thái tổng hợp của nền kinh tế ở một thời điểm hay một giai đoạn nhất định. Về trạng thái tổng hợp của nền kinh tế, không nên hiểu là số cộng đơn thuần tình hình của tất cả các bộ phận cấu thành nền kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, thương mại, giao thông vận tải,và cả tình hình đời sống của người lao động - tình hình thất nghiệp, mà là sự sàng lọc tình hình ở mỗi bộ phận khác nhau của nền kinh tế qua sự tương tác của nhiều nhân tố khác nhau. Cũng có thể dùng hình ảnh bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế cho khái niệm này. Điều đặc biệt GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO 125Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016) là bức tranh toàn cảnh ấy không phải được vẽ bằng những màu sắc thể hiện những gam màu khác nhau, mà được vẽ bằng những chỉ tiêu kinh tế, thể hiện mặt lượng của tình hình. Tức là các chỉ tiêu kinh tế ấy phản ánh những biến động của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Ví dụ, tình hình tăng giảm của GDP, của sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, giao thông vận tải, ở một thời điểm nhất định (thời gian gần nhất khi tiến hành nghiên cứu) hay một giai đoạn nhất định (một khoảng thời gian nhất định : 1,2,3năm). Quan sát tình kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN) người ta thấy nó luôn biến động, và câu hỏi đặt ra là: Cái gì ẩn náu đằng sau những biến động ấy và quyết định sự biến động của tình hình kinh tế? Các nhà nghiên cứu về tình hình kinh tế và thị trường hàng hóa đã chỉ ra rằng sự biến động của tình hình kinh tế TBCN có mối quan hệ đến sự vận động của quá trình tái sản xuất TBCN. Đó là mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất ( một cặp phạm trù trong triết học). Bản chất ở đây chính là sự vận động của quá trình tái sản xuất TBCN và được phản ánh ra hiện tượng vận động bên ngoài của nó là những biến động về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế. Khi chúng ta nói một nền kinh tế đang ở vào giai đoạn khủng hoảng hay hưng thịnh tức là chúng ta đã căn cứ vào thực trạng các chỉ tiêu kinh tế phản ảnh các thời kỳ đó, chúng ta đã đi từ hiện tượng để tìm ra bản chất của vấn đề. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tình hình kinh tế cũng lưu ý mọi người rằng mối quan hệ giữa tình hình kinh tế và tái sản xuất TBCN không phải lúc nào cũng phù hợp với nhau vì như C. Mác đã nói: “Nếu hiện tượng và bản chất luôn phù hợp với nhau thì mọi khoa học trở nên thừa”.4 Như vậy, giữa tình hình kinh tế và tái sản xuất TBCN có những lúc không thống nhất với nhau, tức là hiện tượng không phù hợp với bản chất – điều đã được đề cập trong cặp phạm trù bản chất và hiện tượng của triết học. Đúng vậy. quan sát tình hình kinh tế ta thấy có những lúc quá trình tái sản xuất TBCN ở vào giai đoạn khủng hoảng của chu kỳ kinh tế, nhưng những chỉ tiêu của tình hình kinh tế lại phản ánh trái ngược, chẳng hạn sản xuất công nghiệp có thể vẫn tăng lên và con số thất nghiệp có thể giảm xuống và ngược lại khi tái sản xuất ở vào giai đoạn hưng thịnh thì lại có những chỉ tiêu kinh tế suy giảm. Tại sao lại có sự khác nhau ấy? Vấn đề là ở chỗ, tình hình kinh tế ngoài chịu sự tác động chủ yếu là sự vận động của quá trình tái sản xuất TBCN, trong từng giai đoạn nhất định còn chịu tác động của rất nhiều các loại nhân tố khác (một quả được tạo thành bởi nhiều nhân - cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả trong triết học). Chính các nhân tố này đã tạo nên đặc điểm của tình hình kinh tế ở thời điểm hay giai đoạn đó. Các nhà nghiên cứu tình hình kinh tế chung và tình hình các thị trường hàng hóa (conjuncture of commodity markets) đã chia các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình kinh tế chung làm 3 loại: nhân tố chu kỳ (tức quá trình tái sản xuất), nhân tố tình hình (có rất nhiều) và nhân tố thời vụ. Hay cũng có thể chia thành: các nhân tố tác động lâu dài, các nhân tố tác động tạm thời và nhân tố thời vụ. Nhân tố chu kỳ quyết định sự vận động mang tính quy luật của tình hinh kinh tế chung, nhân tố tình hình có rất nhiều và rất đa dạng, tạo nên đặc điểm của tình hình. Ví dụ như, khi tình hình kinh tế chung phản ánh giai đoạn tiêu điều của chu kỳ kinh tế, nhưng do tác 4 Nguyên lý triết học Mácxit – Chủ nghĩa duy vật bện chứng, Nxb Sự thật, H., 1962, tr. 523. GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO 126 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016) động của nhân tố tình hình, chẳng hạn như chính sách đầu tư của nhà nước vào những ngành công nghiệp nhất định, đã có tác dụng rút ngắn giai đoạn tiêu điều để chuyển nhanh sang giai đoạn phục hồi. Còn nhân tố thời vụ, về mặt thời gian nó có tính chu kỳ, tức là hàng năm cứ vào thời điểm nhất định nó lại xuất hiện và tác động đến tình hình kinh tế chung, như đối với chỉ tiêu về sản lượng nông nghiệp của tình hình kinh tế chung, hàng năm cứ vào vụ thu hoạch thì chỉ tiêu này tăng lên, hay vào những tháng nhất định thì thường xảy ra bão lụt ,v.v.. Như vậy, ở đây đã vận dụng nguyên tắc toàn diện – một trong những nguyên tắc phương pháp luận của Chủ nghĩ duy vật biện chứng để nghiên cứu. Mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất trong Triết học Mác - Lênin cũng được vận dụng để xem xét các phạm trù kinh tế khác như vấn đề tiền lương trong chế độ TBCN. Về hiện tượng, tiền lương là giá cả của lao động, nhưng bản chất của tiền lương là giá cả của sức lao động, hay bản chất sự biến động của giá cả trên thị trường là do quy luật giá trị là bản chất quyết định. * Về phạm trù sự vận động của vật chất, tính lôgic và lịch sử Những phạm trù này đã giúp cho các nhà nghiên cứu về tình hình kinh tế xây dựng phương pháp nghiên cứu của mình là: - Phải nghiên cứu tình hình kinh tế trong trạng thái vận động của nó. Tinh hình ngày hôm nay không giống với ngày hôm qua và cũng sẽ khác với ngày mai. Ph. Ăngghen đã viết “Chỉ có một mình sự vận động là có ý nghĩa tuyệt đối phổ biến”.5 - Khi xem xét các chu kỳ kinh tế thì phải xét đến những điều kiện lịch sử cụ thể trong tồn tại của các chu kỳ ấy. Chẳng hạn, khi xem xét các chu kỳ kinh tế trước chiến tranh thế giới lần thứ hai ta thấy chúng thường có độ dài trên dưới 10 năm và sự thể hiện của các giai đoạn trong chu kỳ rất rõ rệt. Nhưng các chu kỳ từ sau chiến tranh thế giới II thì lại có xu hướng rút ngắn, thường dưới 10 năm, thậm chí chỉ còn 4 đến 5 năm. Có chu kỳ giai đoạn tiêu điều rút ngắn đến mức có người cho rằng không còn giai đoạn này trong chu kỳ nữa. Khủng hoảng sản xuất thừa là biểu hiện trực tiếp nhất mâu thuẫn giữa cung và cầu. Trong các chu kỳ trước chiến tranh người ta thấy rõ sự dư thừa ấy và đã dùng những biện pháp cưỡng bức tạo ra sự thích ứng cung cầu, bằng cách tiêu hủy các sản phẩm đã được sản xuất ra. Nhưng trong các chu kỳ sau chiến tranh thế giới người ta không thấy hiện tượng dư thừa như thế nữa. Nhờ những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, người ta đã tính toán rất chính xác nhu cầu tiêu dùng để sản xuất. Vậy có còn sản xuất thừa trong các chu kỳ từ sau chiến tranh thế giới II nữa không? Vẫn có. Sản xuất thừa này được biểu hiện trong sự dư thừa công suất máy móc, thiết bị. Ngoài ra, các chu kỳ sau chiến tranh thế giới II còn có các cuộc khủng hoảng thiếu, thể hiện sự hỗn loạn xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, như khủng hoảng về năng lượng, khủng hoảng về nguyên liệu, khủng hoảng về môi trường, những cuộc khủng hoảng này đã xảy ra trong chu kỳ kinh tế thế giới TBCN 1971-1975. Đặc điểm của các cuộc khủng hoảng này là không có tính chất chu kỳ và các cuộc khủng hoảng này lại tạo ra những mối quan hệ nhân quả khác nhau đối với nền kinh tế của các nước. Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, một số nhân tố sẽ không tồn tại khi chúng không còn ảnh hưởng đến tình hình kinh tế. Đồng 5 Nguyên lý triết học Mácxit – Chủ nghĩa duy vật biện chứng,, Nxb Sự thật, H.,1962, tr.354. GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO 127Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016) thời, cũng xuất hiện những nhân tố mới quyết định đặc điểm của tình hình kinh tế lúc đó. Ví như, vào thời kỳ diễn ra chu kỳ kinh tế 1971- 1975, khi ấy người ta không thể cứ lấy ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II để đánh giá tình hình kinh tế của những nước tư bản phát triển chủ yếu, những nhân tố mới quyết định đặc điểm tình hình kinh tế của các nước ấy lúc bấy giờ là các cuộc khủng hoảng về năng lượng, khủng hoảng về nguyên liệu và khủng hoảng về môi trường. Vậy là, một trong những nguyên tắc phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, đó là nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng đã được vận dụng để nghiên cứu các vấn đề của môn học. * Về cái đơn nhất, đặc thù và phổ biến, mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng Như ở phần trên đã nói tới sự tồn tại của môn học “Phương pháp nghiên cứu tình hình kinh tế và thị trường hàng hóa TBCN”. Tức là lĩnh vực nghiên cứu này gồm hai phần: Nghiên cứu tình hình kinh tế chung và nghiên cứu tình hình các thị trường hàng hóa. Các nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực này đã nhận thấy mối quan hệ giữa hai phần là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng – một cặp phạm trù trong Triết học Mác - Lênin. Tình hình kinh tế chung là cái chung, tình hình các thị trường hàng hóa là cái riêng, mà cái riêng lại tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không có cái riêng nào tồn tại tách rời cái chung (cặp phạm trù cái chung và cái riêng trong triết học đã đề cập). Vì vậy, khi nghiên cứu tình hình các thị trường hàng hóa phải đặc biệt chú ý đến mối quan hệ đó, V.I. Lênin đã chỉ ra trong tác phẩm “ Bút ký triết học” rằng: “Bất kể cái chung nào cũng chỉ bao quát gần hết tất cả những sự vật riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập hết vào cái chungBất cứ cái riêng nào cũng có liên hệ với những cái riêng (những sự vật, những hiện tượng, những quá trình) loại khác bằng hàng nghìn bước quá độ”6. Khi phân tích vấn đề đạo đức và văn hóa trong kinh doanh, nhiều người đã không thấy mối quan hệ này. Ví dụ, người ta cho rằng đạo dức trong kinh doanh là cái gì đó riêng biệt, không liên quan gì đến đạo đức mang tính xã hội - một phạm trù của Triết học Mác - Lênin, là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi đối xử giữa người với người trong xã hội, giữa cá nhân với tập thể, với gia đình, bạn bè, và để đánh giá những hành vi ấy, đạo đức xã hội sử dụng những phạm trù: thiện, ác, tốt, xấu, vinh dự, nghĩa vụ, lương tâm, v.v.. Đạo đức xã hội chính là cái chung, cần thiết phải có với bất kỳ ai, với trình độ học vấn nào. Còn đạo đức kinh doanh là cái riêng, mang tính nghề nghiệp cần phải có, chẳng hạn như ngành dịch vụ y tế người ta nêu y đức của người thầy thuốc là “Lương y như từ mẫu”, trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa người ta đề cao sự trung thực. Chẳng phải trong ca dao của dân tộc ta đã từng có những câu phê phán hành vi gian lận trong thương mại như: “ Thật thà như thể lái trâu”, hay “đếm cá con” (người bán cá con giống đếm: hai mươi, hai mốt, con này tốt, tám mốt, tám hai). Ngày nay có người cho rằng kinh doanh đúng pháp luật là có đạo đức. Điều đó là đúng nhưng chưa đủ, bởi đạo đức cao hơn pháp luật ở chỗ: Pháp luật do nhà nước đặt ra và bắt buộc mọi người phải theo, còn đạo đức là xuất phát từ nền tảng giá trị chung của xã hội, của tập quán, của truyền thống, của giáo dục và được thực hiện một cách tự nguyện với sự kiểm soát của lương tâm. Có một câu danh ngôn rất hay là: “Pháp luật là hàng rào ngăn con người với nhà tù. Đạo dức là tấm vải che không cho con người thấy nhà tù” (khuyết danh). Về văn hóa kinh doanh, cũng có người cho GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO 128 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016) rằng văn hóa kinh doanh mang tính đặc thù, nhất là văn hóa doanh nghiệp, nó thể hiện “cái hồn” của doanh nghiệp,”cá tính” và “bản sắc” của doanh nghiệp. Nhưng họ quên rằng những cái đó, tuy đều đúng, nhưng cũng đều bắt nguồn từ cái chung là văn hóa dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà trong lĩnh vực nghiên cứu Marketing quốc tế có cả một nội dung về môi trường văn hóa dân tộc để giúp các doanh nghiệp thích ứng trong hoạt động kinh doanh quốc tế của mình. Trên đây chỉ là một số ví dụ về việc vận dụng kiến thức của Chủ nghĩa duy vật biện chứng trong Triết học Mác - Lênin vào việc nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung môn học chuyên ngành mà bản thân đã thực hiện. Đọc và suy ngẫm sẽ thấy, các nguyên lý, quy luật, phạm trù trong Chủ nghĩa duy vật biện chứng thực sự là kiến thức nền, đem lại phương pháp luận cho việc nghiên cứu các lĩnh vực khoa học khác. Nhưng triết học là môn khoa học có đối tượng nghiên cứu rộng nhất (nghiên cứu cả về tự nhiên, xã hội và tư duy), nên tri thức triết học có tính khái quát và trừu tượng cao. Có lẽ cũng vì thế mà khi bắt đầu học môn Triết học Mác - Lênin, không ít sinh viên cho rằng môn học này nội dung khô cứng, người học mang tâm trạng bất đắc dĩ. Nhưng khi học đến những môn chuyên ngành, họ mớí thấy hết ý nghĩa nền tảng của những kiến thức từ những nguyên lý, quy luật, phạm trù triết học, điều rất cần thiết giúp họ tiếp thu sâu sắc hơn các môn học chuyên ngành. Nhất là sau khi ra trường phải va đập với thực tiễn, với cuộc sống, họ sẽ càng thấm thía hơn ý nghĩa của những kiến thức triết học đó, nó cần thiết cho họ tựa như bản cửu chương trong suốt cả cuộc đời. Thay cho lời kết Phil Gasper đã viết: “Những vấn đề về toàn cầu hóa, bất bình đẳng, tham nhũng chính trị, chủ nghĩa độc quyền, tiến bộ công nghệ, Đó là những vấn đề các nhà kinh tế hiện nay đang phải đối mặt, mà đôi khi họ không nhìn ra rằng mình đang đi theo con đường của C. Mác”7. Và chẳng riêng gì Phil Gasper, ngay Thomas L. Friedman cũng lấy làm kinh ngạc khi đọc “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đã thấy: “ Sự mô tả chi tiết và sâu sắc của C. Mác về các nhân tố làm phẳng thế giới vào thời kỳ hưng thịnh của cách mạng công nghiệp, cũng như khả năng dự đoán siêu phàm của ông về việc các lực lượng này sẽ tiếp tục làm phẳng thế giới cho đến ngày nay”8.q 7 N Notre Phil Gasper - Giáo sư triết học, Đại học dam de Namur, California (Báo “Tuổi trẻ” 28/11/2005). 8 Thomas L. Friedan, Thế giới phẳng, Nxb Trẻ,Tp HCM, 2006, tr. 350./. Tài liệu tham khảo 1. Báo Tuổi trẻ, ngày 28/11/2005. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Tư tưởng, M., (bản tiếng Nga). 3. Nguyên lý triết học Mácxit – Chủ nghĩa duy vật biện chứng, 1962, Nxb Sự thật, H. 4. F. G. Pítscoppen, 1960, Cơ sở lý luận nghiên cứu tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, Nxb IMO, M, bản tiếng Nga. 5. Thomas L. Friedan, 2006, Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, Tp HCM.
File đính kèm:
- doi_dieu_suy_ngam_ve_hoc_thuyet_cua_cac_mac.pdf