Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam

Tình hình kinh tế thế giới trong những thập niên đầu thế kỷ XXI đã, đang và sẽ biến

động khôn lường không dự báo được. Từ sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nay, các

quốc gia, đặc biệt là các cường quốc, phải điều chỉnh chính sách kinh tế để thích ứng với diễn

biến của tình hình. Đó là chính sách nới lỏng tiền tệ và tài chính, chính sách tái cơ cấu nền

kinh tế. Những chính sách này tuy đã chặn đà suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng chỉ

duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu (EU)

ở mức 1%, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới khoảng 2,5-3% trong các năm 2008 - 2009. Cho

đến nay, kinh tế Mỹ hồi phục khá hơn, tăng trưởng khoảng 2% năm 2016, nhưng các nền kinh

tế Châu Âu và Nhật Bản vẫn chỉ tăng trưởng trên 1%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung

Quốc cũng đã giảm từ 9-10%/năm xuống còn 6,5%/năm trong năm 2017. Tăng trưởng kinh tế

của các cường quốc và của thế giới hồi phục chậm và có không ít nguy cơ diễn biến theo chiều

hướng xấu hơn do chủ nghĩa dân túy và chống toàn cầu hóa gia tăng, đồng thời do đổi mới

công nghệ, đổi mới thể chế, khuyến khích xu hướng phát triển sáng tạo diễn ra chậm chạp.

Những điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc đã tác động tới nền kinh tế thế giới,

trong đó có Việt Nam.

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 1

Trang 1

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 2

Trang 2

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 3

Trang 3

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 4

Trang 4

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 5

Trang 5

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 6

Trang 6

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 7

Trang 7

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 8

Trang 8

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 9

Trang 9

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 5920
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam

Điều chỉnh chính sách kinh tế của các cường quốc và tác động đến Việt Nam
này đã đạt được kết quả 
như sau: đưa lạm phát lên 2% trong 2 năm 
thông qua việc mua trái phiếu chính phủ và 
các tài sản tài chính có sự rủi ro hơn như 
các quỹ đầu tư tín thác; năng suất lao động 
tăng ít nhất 2% trong trung và dài hạn; tốc 
độ tăng lương cao hơn tốc độ tăng giá, cơ 
hội việc làm gia tăng; GDP tăng khoảng 
3%; mức thu nhập bình quân đầu người 
tăng hơn 3% trong trung và dài hạn; tạo 
thêm 600.000 việc làm trong 2 năm; cắt 
giảm thuế suất doanh nghiệp từ mức 35% 
xuống còn 30% trong vài năm kể từ 2015. 
Như trên đã nói, Thủ tướng Abe đã 
triển khai chiến lược phát triển theo 
hướng ba mũi tên: nới lỏng tiền tệ, nới 
lỏng tài chính và tái cấu trúc nền kinh tế. 
Chiến lược ba mũi tên này đã được nhiều 
nước phương Tây áp dụng. Tuy nhiên, kết 
quả đạt được từ năm 2008 đến nay là 
khiêm tốn: tăng trưởng GDP từ 2013 đến 
2016, chỉ có 2 quý đạt mức tăng trưởng 
1,3%, 5 quý đạt mức tăng trưởng âm 0,4% 
đến âm 0,7% và 5 quý đạt mức tăng 
trưởng âm 0,1% đến âm 2%. Kết quả này 
so với yêu cầu của chiến lược (tăng trưởng 
2-3%/ năm) xem như là không đạt. Nếu 
tính bình quân năm thì chỉ có năm 2013 
đạt 1,4% và năm 2015 đạt 0,5%, còn năm 
2014 chỉ đạt 0%; về lạm phát, chỉ có năm 
2014 đạt mức 2,8% còn các năm khác chỉ 
đạt được 1%, trong khi mục tiêu đặt ra 
phải đạt mức 2%/năm; GDP bình quân đầu 
Võ Đại Lược 
9 
người từ năm 2012 đến năm 2015 liên tục 
giảm từ 46.792 USD xuống còn 32.484 
USD; cán cân tài chính luôn thâm hụt ở 
mức âm 6,7 đến âm 8,5% (2012-2015); 
cán cân thương mại luôn thâm hụt ở mức 
âm 23,3 tỷ USD đến âm 117,5 tỷ USD 
(2013-2015). 
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) 
đã khẳng định rằng kinh tế Nhật Bản tiếp 
tục phục hồi ở mức vừa phải, mặc dù có 
những điều kiện quốc tế bất lợi. Định 
hướng chiến lược vẫn tiếp tục hướng về 
phía trước; đó là tăng tiêu dùng cá nhân, 
thị trường việc làm cải thiện, nâng cao lợi 
nhuận doanh nghiệp, chuyển hướng sang 
đầu tư mạnh hơn. 
Tuy nhiên, phần đông giới nghiên cứu Nhật 
Bản cho rằng còn quá sớm để đánh giá chính 
xác và có những kết luận khách quan về mức 
thành công hay thất bại của Abenomics đối 
với sự phục hưng của Nhật Bản. 
Thực ra chính sách Abenomics với ba 
mũi tên không phải là một điều mới mẻ. 
Các quốc gia phát triển nói chung đều đã 
dùng bài thuốc: nới lỏng tiền tệ, tài chính 
và chính sách tái cơ cấu. Tuy nhiên, kết 
quả đạt được cho đến nay có thể nói là 
không mấy lạc quan. Kinh tế các nước này 
có phục hồi nhưng mong manh, dù cho 
chính sách tiền tệ và tài chính đã nới lỏng 
hết mức, còn chính sách tái cơ cấu thì 
không dễ thực hiện. Với những kết quả đạt 
được cho tới nay, chính sách Abenomic 
cũng đang ở tình trạng tương tự. 
5. Điều chỉnh chính sách kinh tế của 
Trung Quốc 
Kinh tế Trung Quốc bước vào những năm 
đầu thế kỷ XXI đã phải đối mặt với 5 thách 
thức sau đây. 
1) Lợi tức dân số đã tới mức trần. Năm 
2015, tỷ lệ đô thị hóa của Trung Quốc đã 
lên đến 56,1%, mỗi năm tăng 1-1,5%, đến 
năm 2017 sẽ đạt 58-60%, mức trần ngày 
càng gần, dân số nông thôn đổ vào thành thị 
ngày càng giảm. Năm 1990, dân số sinh ra 
ở Trung Quốc là 26,2 triệu người, sau 10 
năm con số này đã giảm xuống còn 11,5 
triệu người, giảm 50%, đã trực tiếp gây ra 
sự sụt giảm nhu cầu của các ngành nghề và 
về tiêu dùng. Tiền công lao động đã tăng 
làm tăng chi phí sản xuất. Thời kỳ đại 
công xưởng của Trung Quốc dựa vào lợi 
thế tiền công thấp đã kết thúc. 
2) Công suất của ngành công nghiệp dư 
thừa, đặc biệt là các ngành thép, than có 
mức dư thừa hàng chục triệu tấn, dư thừa 
trên thị trường bất động sản cũng rất lớn. 
3) Dư nợ tín dụng quá lớn, tới hơn 175% 
GDP, tín dụng đen và nợ xấu ngân hàng 
gia tăng. 
4) Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, 
đến mức Trung Quốc phải đóng cửa hàng 
loạt nhà máy nhiệt điện chạy bằng than. 
5) Dự trữ ngoại hối giảm mạnh, do 
không ít người Trung Quốc đã chuyển 
tiền ra nước ngoài vì lo ngại sự bất ổn của 
xã hội Trung Quốc. 
Để xử lý 5 thách thức trên, Chính phủ 
Trung Quốc đã thực hiện 11 điều chỉnh 
quan trọng sau: 
1) Tiếp tục đổi mới và tăng cường điều 
tiết vĩ mô, kinh tế vận hành trong phạm vi 
hợp lý; điều chỉnh kết cấu, phòng ngừa rủi 
ro, chuyển thuế doanh nghiệp thành thuế 
giá trị gia tăng; chuyển nợ tồn đọng của 
chính quyền địa phương thành nợ trái 
phiếu; thực hiện chính sách tiền tệ vững 
chắc; thúc đẩy và nâng cấp tiêu dùng; 
phòng ngừa rủi ro tài chính. 
2) Tập trung sức thực hiện tốt 5 mục 
tiêu kinh tế (gồm giải quyết ổn thỏa tình 
trạng dư thừa năng lực sản xuất; hỗ trợ 
doanh nghiệp hạ giá thành; giảm lượng 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2018 
10 
tồn kho bất động sản; tháo gỡ đòn bẩy tài 
chính; nâng cao hiệu quả đầu tư). 
3) Đi sâu cải cách toàn diện, xử lý tốt 
mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường; 
giảm 1/3 hạng mục phê duyệt hành chính; 
giám sát quản lý, hậu kiểm, điều chỉnh và 
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; xây 
dựng chế độ xét duyệt công bằng, cạnh 
tranh; hoàn thiện biện pháp “ba phân 
quyền” (quyền sở hữu, quyền kinh doanh 
và quyền nhận thầu) về đất đai ở nông 
thôn; mở rộng quyền tự chủ cho các 
trường đại học và các viện nghiên cứu; 
thả nổi thị trường dưỡng lão, cải cách việc 
ngừng sản xuất để nuôi dưỡng đất 
4) Thúc đẩy tăng cường mở cửa với 
bên ngoài. Thúc đẩy xây dựng “Một vành 
đai, một con đường”, đồng nhân dân tệ 
được chính thức đưa vào rổ tiền tệ của 
IMF. Kết nối hai sàn chứng khoán Thâm 
Quyến và Hồng Công, thành lập 12 khu 
thí điểm tổng hợp về thương mại điện tử 
xuyên quốc gia, thành lập mới 7 khu 
thương mại tự do thí điểm. 
5) Tăng cường dẫn dắt bằng sự sáng 
tạo, các động lực mới lớn mạnh nhanh; 
thực hiện toàn diện chiến lược “Made in 
China 2025”; hoàn thiện chính sách sáng 
tạo và khởi nghiệp; khởi động các dự án 
sáng tạo khoa học, công nghệ quan trọng 
hướng tới năm 2030; hỗ trợ Bắc Kinh, 
Thượng Hải xây dựng trung tâm sáng 
tạo khoa học, công nghệ có ảnh hưởng 
toàn cầu. 
6) Thúc đẩy sự phát triển nhịp nhàng 
giữa các vùng miền, giữa thành thị và 
nông thôn, cực tăng trưởng và vành đai 
tăng trưởng mới được hình thành nhanh; 
phát triển hài hòa giữa Bắc Kinh, Thiên 
Tân và Hồ Bắc; phát triển vành đai kinh 
tế sông Trường Giang; xây dựng “quy 
hoạch 5 năm lần thứ 13” về phát triển 
miền Tây; thực thi chiến lược chấn hưng 
vùng Đông Bắc vòng mới; thúc đẩy sự 
trỗi dậy của miền Trung; ủng hộ miền 
Đông phát triển đi trước; đẩy nhanh đô thị 
hóa kiểu mới, cải cách chế độ hộ tịch, 
thực hiện chế độ thẻ cư trú. 
7) Tăng cường xây dựng văn minh sinh 
thái, phát triển xanh. Xây dựng và thực thi 
biện pháp đánh giá văn minh sinh thái, 
xây dựng khu thí điểm văn minh sinh thái 
quốc gia. Đẩy mạnh giải quyết ô nhiễm 
không khí, tối ưu hóa kết cấu năng lượng, 
phòng chống ô nhiễm nước, đất, điều tra 
xử lý nghiêm khắc một số vụ án vi phạm 
pháp luật về môi trường. 
8) Chú trọng bảo đảm và cải thiện dân 
sinh, tăng đầu tư cho dân sinh, thực thi 
chính sách tạo việc làm và lập nghiệp 
mới. Nâng cao các tiêu chuẩn bảo đảm 
mức sống tối thiếu, tiền tuất, lương hưu 
cơ bản, đảm bảo chi đủ cho ngân sách 
giáo dục, y tế, bảo hiểm y tế và xã hội. 
9) Thúc đẩy xây dựng tinh thần sáng 
tạo của Chính phủ, xã hội duy trì ổn định 
và hài hòa. Hoàn thiện quy chế tiếp nhận 
ý kiến của nhân dân trong hoạch định 
chính sách công cộng, công bố toàn diện 
quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan 
chính quyền cấp tỉnh, đảm bảo giữ gìn trật 
tự, trị an xã hội. 
10) Thực hiện chính sách chống tham 
nhũng “đả hổ diệt ruồi” một cách quyết 
liệt và được lòng dân. Chính sách chống 
tham nhũng chú trọng đặc biệt đến hai 
loại cán bộ: cấp phòng, khoa, ban và các 
quan chức đứng đầu ngành và địa phương. 
Thực tế ở Trung Quốc cho thấy quan chức 
cấp phòng khoa, ban tuy chức nhỏ nhưng 
khởi đầu cho các vụ tham nhũng lớn, do 
vậy gia tăng các biện pháp giám sát chặt 
chẽ, tăng cường giáo dục, đề cao chính 
nghĩa. Đối với các quan chức đứng đầu 
ngành và địa phương, Trung Quốc thực 
hiện chủ trương trạng thái chính trị thông 
Võ Đại Lược 
11 
thường mới (gồm 4 nội dung chủ yếu: 
lành tính xua đuổi ác tính; tuân thủ quy 
tắc cạnh tranh khiến người có tài đi lên, 
người liêm khiết đi lên, loại bỏ quan bất 
tài, quan tham nhũng ra khỏi chính 
trường; liêm khiết chiến thắng tham 
nhũng, phải trừng trị tham nhũng cường 
độ cao để đề phòng tham nhũng toàn diện; 
cần mẫn thay thế lười biếng). 
11) Thay thế nhân trị bằng pháp trị. 
Hiện nay, không ít cơ quan, nhân trị với 
quyền lực lớn hơn pháp luật vẫn nổi cộm. 
Do vậy cần vứt bỏ nhân trị, cai quản đất 
nước theo pháp luật. Để thiết lập trạng 
thái chính trị thông thường mới, cần phải 
nhốt quyền lực “số 1” trong “lồng” theo 
hướng phải tự ràng buộc và kiểm soát hữu 
hiệu, cơ quan quy định cụ thể danh mục 
các quyền lực, quy trình vận hành quyền 
lực. Tăng cường kiểm soát các quan hệ 
của người thân của “số 1” kể cả các thư 
ký, bạn bè, người nhà. “Số 1” phải tự kỷ 
luật, không “bá quyền”, không gia trưởng, 
không độc đoán, phải thực sự cầu thị, bồi 
dưỡng đạo đức, lấy liêm khiết làm đầu, 
“số 1” phải chịu trách nhiệm tổng thể. 
Trung Quốc đã thực hiện ráo riết những 
điểu chỉnh chính sách trên đây dưới thời 
Tập Cận Bình và đã có những kết quả cụ 
thể. Đó là: kìm chế một phần đà suy giảm 
tốc độ tăng trưởng từ 9-10%/năm xuống 
còn 6,5-7%/năm chứ không rơi tự do như 
một số học giả nước ngoài cảnh báo; giảm 
dần các công suất dư thừa, đặc biệt là thép 
và than, giảm dần mức ô nhiễm môi 
trường; gia tăng nhu cầu trong nước, các 
ngành dịch vụ phát triển, xu hướng phát 
triển sáng tạo gia tăng Tuy nhiên, vẫn 
còn không ít thách thức. Đó là: cải cách 
thể chế tiến triển chậm, nợ xấu và tín 
dụng đen chưa khắc phục được, cải cách 
doanh nghiệp nhà nước chậm trễ, và khu 
vực doanh nghiệp tư nhân chưa phát huy 
được tác dụng mong muốn Triển vọng 
dài hạn của nền kinh tế Trung Quốc có thể 
có hai khả năng: hạ cánh mềm và hạ cánh 
cứng, hoặc là chông chênh giữa hai khả 
năng này. Cho đến nay lãnh đạo Trung 
Quốc khẳng định nền kinh tế Trung Quốc 
đang hạ cánh mềm. 
6. Những tác động đối với Việt Nam 
Tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức 
tạp, các nước lớn đã, đang và sẽ tiếp tục 
điều chỉnh chính sách kinh tế sẽ dẫn đến 
những tác động cả tích cực và tiêu cực đối 
với Việt Nam. 
Có 4 tác động tích cực sau: 
1) Trong khi thế giới đang biến động 
và có nhiều bất ổn, đặc biệt là các cuộc 
xung đột sắc tộc và tôn giáo, cuộc chiến 
toàn cầu chống Nhà nước Hồi giáo (IS) 
gia tăng, thì tình hình chính trị, an ninh xã 
hội ở Việt Nam khá ổn định. Đây là một 
thế mạnh của Việt Nam so với các nước 
trong khu vực. Việt Nam có lợi thế địa 
chiến lược và địa kinh tế quan trọng. Việt 
Nam ở vị trí trung tâm của vùng Đông Á; 
có lợi thế về biển với 3.260 km bờ biển; 
có 50 cảng biển, trong đó có những cảng 
nước sâu hàng đầu thế giới như cảng Cam 
Ranh, cảng Vân Phong...; có 40 vũng, 
vịnh, 3.000 hòn đảo lớn nhỏ; là 1 trong 10 
nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về 
chiều dài bờ biển. Lợi thế địa kinh tế của 
Việt Nam là lợi thế mặt tiền, ngã tư, vùng 
trung tâm. Đây là lợi thế hết sức quan 
trọng đối với sự phát triển của Việt Nam. 
Lợi thế trên đây cũng có ý nghĩa quan 
trọng về chiến lược, do vậy các cường 
quốc trên thế giới luôn nhòm ngó, tranh 
chấp vị trí địa chiến lược này. Nền kinh tế 
Việt Nam đã có độ mở khá cao, kim 
ngạch xuất nhập khẩu đã vượt quá 150% 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2018 
12 
GDP, lượng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam 
ngày càng gia tăng; Việt Nam cũng đã xây 
dựng 15 khu kinh tế ven biển, 28 khu kinh 
tế cửa khẩu, với một số chính sách ưu đãi 
nhằm thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. 
Những lợi thế trên đã tạo cho Việt Nam 
có sức hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế. 
Các dòng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng 
đều đặn trong những năm vừa qua là một 
minh chứng. 
2) Dù cầu thế giới có suy giảm, nhưng 
những mặt hàng xuất khẩu nông, lâm, thủy 
hải sản của Việt Nam là những mặt hàng 
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của các 
quốc gia, nên đã và sẽ ít bị ảnh hưởng. 
3) Các quốc gia phát triển đang ở trong 
thời kỳ tái cơ cấu kinh tế, do vậy họ có yêu 
cầu chuyển nhượng công nghệ để tạo điều 
kiện ứng dụng công nghệ mới. Đây cũng là 
thời cơ để Việt Nam có thể tiếp nhận các 
công nghệ hiện đại từ các nước Âu Mỹ. 
4) Việt Nam đã ký 10 Hiệp định 
thương mại tự do (FTA), sẽ ký 5 FTA 
nữa, nghĩa là Việt Nam sẽ ngày càng hội 
nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. 
Đây cũng là cơ hội tốt để Việt Nam có thể 
thu hút các nguồn lực của thế giới vào 
Việt Nam. 
Các tác động tiêu cực là: 1) cầu thế 
giới giảm đã tác động đến giá cả hàng hóa, 
đặc biệt là giá tài nguyên khoáng sản. Việt 
Nam là nước xuất khẩu một số loại khoáng 
sản, đặc biệt là dầu mỏ, nên đã và sẽ bị tác 
động tiêu cực; 2) giá một số mặt hàng xuất 
khẩu của Việt Nam như cao su, cà phê... 
diễn biến bất lợi cho những người sản xuất 
ở Việt Nam; 3) USD lên giá sẽ gây tác 
động tiêu cực đối với kinh tế thế giới và 
Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng; 4) các 
quốc gia đang và sẽ điều chỉnh chính sách, 
nếu Việt Nam không điều chỉnh thích ứng, 
cũng sẽ bị tác động tiêu cực, chẳng hạn, 
nếu Fed tăng lãi suất, mà Ngân hàng nhà 
nước Việt Nam không điều chỉnh tỷ giá 
phù hợp, cả sản xuất và xuất khẩu sẽ bị tác 
động xấu. 
7. Kết luận 
Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 
năm 2008 đến nay, các nền kinh tế lớn Mỹ, 
Nhật Bản, EU và Trung Quốc tiếp tục điều 
chỉnh chính sách kinh tế nhằm phục hồi tăng 
trưởng kinh tế. Điều đó đã và đang tác động 
lớn, cả tích cực và tiêu cực, tới kinh tế các 
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. 
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào 
nền kinh tế toàn cầu, do vậy Việt Nam phải 
đối diện với cạnh tranh toàn cầu. Việt Nam 
nếu không đổi mới, nâng cấp thể chế, kết 
cấu hạ tầng và trọng dụng nhân tài, thì sẽ tụt 
hậu và thua thiệt trong cuộc cạnh tranh này. 
Trong những năm tới, Việt Nam phải tận 
dụng tốt nhất các thời cơ cho sự phát triển 
của đất nước, đồng thời phải khắc phục có 
hiệu quả nhất các tác động tiêu cực của tình 
hình thế giới. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hội đồng Lý luận Trung ương (2010), Những 
vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong 
tình hình hiện nay, Tập II, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
[2] Võ Đại Lược (2015), Những vấn đề kinh tế 
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[3] Võ Đại Lược (2015), Báo cáo kết quả nghiên 
cứu Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số 
ĐTĐL-XH17/15 “Cục diện kinh tế thế giới 
hiện nay và tác động tới Việt Nam”, Hà Nội. 
[4] Furuta Motoo (1999), “Nhật Bản sẽ đi về đâu 
trong những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí 
Nghiên cứu Nhật Bản, số 4. 
[5] Viện Chiến lược phát triển (2010), Cơ sở khoa 
học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển 
kinh tế - xã hội Việt Nam đến 2010, tầm nhìn 
2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Võ Đại Lược 
13 

File đính kèm:

  • pdfdieu_chinh_chinh_sach_kinh_te_cua_cac_cuong_quoc_va_tac_dong.pdf