Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cho cán bộ, đảng viên
1. Đặt vấn đề
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của dân tộc Việt Nam, người
chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại, trước lúc
đi xa Người đã để lại cho dân tộc ta một văn kiện lịch sử đặc biệt, một bảo vật quốc gia,
di sản vô cùng quý giá, đó là bản 3 0 TDi chúc3 0 T. Bao trùm và xuyên suốt toàn bộ 3 0 TDi chúc 3 0 Tlà hai
chữ Đảng và Nhân dân; là mối quan tâm sâu sắc, những trăn trở nhất trong suốt cuộc
đời tận trung với nước, tận hiếu với dân của Người. Người luôn trăn trở với nhiệm vụ hệ
trọng là phải làm sao để “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”P 1 F1P.
3 0 T 1 8 T3 0 TĐảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội quân tiên
phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam1 8 T3 0 T; là người
tiên tiến nhất trong nhân dân lao động của dân tộc; là người tiên phong, gương mẫu trước
quần chúng nhân dân. Toàn bộ sức mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
đều được tạo thành từ những người đảng viên bởi họ luôn đặt lợi ích của giai cấp và dân
tộc lên trên hết, trước hết. Vì vậy, trong xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay cần giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên mà cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là
một trong những chuẩn mực đạo đức đầu tiên của người cán bộ, đảng viên hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cho cán bộ, đảng viên
để mở đường cho những nhân tố cách mạng, tiến bộ được phát triển và trở thành sinh lực trường tồn trong Đảng. Hiển nhiên, đạo đức trong Đảng không phải tự nhiên có được, “không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng 7 như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”P7F .P Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng vững mạnh về đạo đức vừa là nhu cầu tự thân xuất phát từ quy luật tồn tại, phát triển của Đảng, vừa là yêu cầu mang tính khách quan trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. 2.3. Giải pháp nâng cao giáo dục đạo đức cách mạng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cho cán bộ, đảng viên Một là, luôn học tập để không ngừng nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn và thấm nhuần đạo đức cách mạng. Học tập, tu dưỡng phải theo phương châm: Việc gì có lợi cho dân, phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, phải hết sức tránh. Người khẳng định: “Muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hóa, thì phải luôn thực hành 4 chữ đó là: Cần, kiệm, liêm, chính”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây cũng là biện pháp quan trọng hàng đầu, nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài trong công tác xây dựng Đảng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải giữ gìn và không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tính kỷ luật, dân chủ trong tập thể; luôn có ý thức trau dồi phẩm chất chính trị, tư tưởng, phải thật sự là công bộc của dân; luôn chăm lo học tập nâng cao trình độ lý luận; gắn nghiên cứu lý luận với thực tế công việc để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực hoạt động thực tiễn; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn, trong công việc và sinh hoạt hằng ngày. Trong công việc, người cán bộ, đảng viên phải nêu gương; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể, biết tự chỉ trích để tiến bộ. 8 Hai là, Đảng phải “thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”P8F P nhằm 9 tự gột rửa “những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”P9F .P Tự phê bình và phê bình trước hết là yêu cầu và phương thức giáo dục đạo đức 10 cách mạng trong Đảng. Với địa vị “là người lãnh đạo, là người đày tớ”P10F ,P nếu không 7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.612. 8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.622. 9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.617. 214 Thành phố Huế, ngày 26 tháng 8 năm 2019 Đại học Huế thường xuyên tự phê bình và phê bình, Đảng sẽ không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử cao cả mà dân tộc giao phó. Thông qua tự phê bình và phê bình, đảng viên trong toàn Đảng sẽ nhận thức rõ ưu điểm của tập thể, đồng chí, đồng nghiệp, không ngừng trau dồi, học tập, đồng thời thấy rõ những hạn chế, yếu kém, sai lầm để cùng nhau khắc phục, sửa chữa. Phát huy vai trò tự phê bình và phê bình chính là quá trình hình thành dư luận tập thể tích cực trong rèn luyện đạo đức cách mạng. Thông qua tự phê bình và phê bình, toàn Đảng và từng đảng viên phải biết phân tích rõ ràng cái gì đúng, cái gì sai của tập thể, của người khác, của bản thân. Xác định bản chất đúng sai của một vấn đề là rất quan trọng, là cơ sở để Đảng dũng cảm “thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, 11 rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó”P1F .P Muốn làm được như vậy, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ có vốn tri thức và hiểu biết nhất định mà còn phải đứng trên quan điểm lập trường vì cái chung, lợi ích chung của toàn dân tộc chứ không phải vì lợi ích cá nhân. Khi đã hiểu rõ đúng sai thì phải phê bình cái sai và ủng hộ cái đúng. Cũng nhờ hiểu đúng sai nên mới phân biệt công - tư, thiện - ác, lợi - hại, rồi “thật thà tự phê bình và phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, để 12 cùng nhau tiến bộ”P12F .P Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Từng đảng viên phải tỏ rõ thái độ nhất quyết không chịu sự chi phối và ảnh hưởng của những khuyết điểm, sai lầm rồi “cả 13 quyết sửa lỗi mình”P13F .P Ra sức ủng hộ, cổ vũ những gương người tốt, việc tốt, tích cực, kiên quyết đấu tranh để sửa chữa khuyết điểm, không để hậu quả lan rộng ra có hại cho sự nghiệp chung của Đảng, lợi ích thiết thực của nhân dân. Tự phê bình và phê bình cần được tiến hành thường xuyên trong mọi mặt hoạt động của Đảng. Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cách mạng cũng có những cơ chế nảy sinh, phương thức hình thành phổ biến như các hình thái ý thức xã hội khác, phương thức đó không gì khác chính là thông qua hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức đạo đức, là thước đo tính đúng đắn, phù hợp, tiến bộ của các chuẩn mực đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đồng thời, trong thực tiễn, thông qua thực tiễn, mỗi đảng viên có điều kiện học hỏi lẫn nhau, phê bình nhau để cùng nhau tiến bộ. Nhân cách của người khác chính là tấm gương phản chiếu để mỗi người tự nhìn lại mình, biết mình đang ở đâu để tự phê bình, học tập kinh nghiệm hay, tính cách tốt đẹp để không ngừng tiến bộ, trưởng thành. Sẽ là vô nghĩa và bị lên án mạnh mẽ nếu đạo đức của một đảng viên nào đó xa lạ và đối lập với lý tưởng của Đảng và lợi ích của quần chúng 10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.622. 11 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.301. 12 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.327. 13 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.280. 215 Kỷ yếu Hội thảo Hội thảo “Bác Hồ với giáo dục” nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tấm gương mẫu mực về đạo đức, lối sống. Người thường nói ít làm nhiều, nhiều khi làm mà không nói. Người đặc biệt lên án các biểu hiện lệch lạc, sai trái trong thực hiện tự phê bình và phê bình, nhất là “thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng”. Phê bình thì phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật - mục đích là cốt sửa chữa, chứ không phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ, chứ không phải làm cho đồng chí hoang mang, nản chí. Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức cách mạng với tăng cường kỷ luật Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của việc giữ vững kỷ luật Đảng. Người cho rằng: “Không giữ vững kỷ luật của Đảng, không kiên quyết chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, không thiết tha quan tâm đến lợi ích của Đảng - là trái với 14 nghĩa vụ của đảng viên”P14F .P Do đó, tăng cường kỷ luật Đảng nhằm xây dựng Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh” có tác dụng giáo dục đạo đức cách mạng rất lớn. Quần chúng chỉ thực sự tin Đảng, yêu Đảng và tự giác làm tròn bổn phận của mình khi mỗi đảng viên của Đảng thực sự là tấm gương mẫu mực về chấp hành nghiêm cương lĩnh, điều lệ Đảng. Muốn tăng cường kỷ luật Đảng biện pháp quan trọng nhất là “cần phải độ toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn 15 dân”P15F .P Bởi vì, nhân dân có hàng triệu người, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác, giống như “thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng 16 phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”P16F .P Kinh nghiệm lịch sử Đảng ta cho thấy: Vì Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng do đó hầu hết những suy thoái trong Đảng đều được người dân nhìn thấy rõ nhất. Người đặc biệt chú trọng phát huy vai trò kiểm soát của nhân dân đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng. Theo Người, kiểm soát có 2 cách: từ trên xuống và từ dưới lên. Từ trên xuống là kiểm soát kết quả công việc cán bộ mình làm. Từ dưới lên là quần chúng, cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa sự sai lầm đó. Người cho rằng đây là phương thức hiệu quả nhất, nếu “kiểm soát 17 khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết”P17F .P Trên cơ sở đó, Người cho rằng cần xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước của cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất nhằm làm trong sạch bộ máy. Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta luôn chú trọng mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân, nhất là hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm giúp “ngăn chặn và đầy lùi suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Thông qua lấy phiếu tín nhiệm giúp cán bộ, đảng viên, đặc 14 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.547. 15 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.617. 16 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.419. 17 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.419 216 Thành phố Huế, ngày 26 tháng 8 năm 2019 Đại học Huế biệt là những người đứng đầu thấy rõ hơn trách nhiệm phục vụ nhân dân. Niềm tin của nhân dân với Đảng chính là mệnh lệnh đạo đức, là danh dự, nhân phẩm của cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, khi niềm tin ấy bị xói mòn và không còn tồn tại nữa chính là căn cứ để luân chuyển và miễn nhiệm, sa thải cán bộ. Vấn đề ở chỗ, Đảng và Nhà nước phải thực sự tin dân, tin vào trí tuệ sáng suốt, công tâm của quần chúng trong các lá phiếu. Bốn là, phát huy vai trò nêu gương về đạo đức cách mạng. Nêu gương về đạo đức trước hết là một yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên và những người đứng đầu các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội. Việc nêu gương đạo đức của cán bộ, đảng viên có tác dụng giáo dục quần chúng rất cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên “tự mình 18 phải chính trước, mới giúp được người khác chính”P18F .P Ngược lại, sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi đạo đức, lối sống, ý thức kỷ luật, pháp luật của công dân. Để có được những tấm gương sáng cho quần chúng học tập và noi theo, đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, tự mình gương mẫu “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; tư tưởng và hành động của từng đảng viên phải thống nhất, nếu không “khác nào một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” sẽ không thể lãnh 19 đạo quần chúng, không thể làm cách mạng”P19F .P Cần lựa chọn, nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt trong toàn Đảng để mọi người tự giáo dục lẫn nhau. Đây cũng là quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo đức cách mạng. Người nói: “Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để xây dựng con người. Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần chúng rất 20 sinh động và có sức thuyết phục rất lớn”P20F .P Bằng sự nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa giáo dục đạo đức và thực hành đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng ngời suốt đời “hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Ngay cả khi căn dặn “về việc riêng”, Bác luôn trăn trở lo cho dân, cho nước, “sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì 21 giờ và tiền bạc của nhân dân”P21F .P Tấm gương tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời và tuyệt đối ấy chính là bài học cho toàn Đảng, toàn dân học tập và làm theo. Năm là, nâng cao chất lượng công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát cán bộ, đảng viên của các cơ quan nhà nước, thực hiện kỷ luật nghiêm minh của các tổ chức 18 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.130. 19 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.606. 20 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.665. 21 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.623. 217 Kỷ yếu Hội thảo Hội thảo “Bác Hồ với giáo dục” đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là biện pháp cần được tiến hành thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng, cũng như việc rèn luyện đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ tổng kết, rút kinh nghiệm gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó, mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”. Cấp ủy các cấp cần có chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng và thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát. Thông qua kiểm tra, giám sát để quản lý chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên; đồng thời phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm tư cách, thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng. 3. Kết luận Nửa thế kỷ đã đi qua kể từ ngày Bác Hồ viết Di chúc nhưng những di huấn của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, trở thành ánh sáng soi đường cho toàn Đảng, toàn dân ta trong mục tiêu “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Thành tựu đạt được là vô cùng to lớn, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày 22 nay”P22F .P Tuy nhiên, thách thức vẫn rất lớn, nhất là tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” là vấn đề sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Một lần nữa, chúng ta cần nhắc lại lời cảnh báo của V.I.Lênin, trong quá trình giải quyết công việc cấp bách này: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp 23 đổ”P23F .P Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, những chỉ đạo sát sao từ Trung ương đến địa phương, sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được những thành quả quan trọng. Dù thế giới có đổi thay như thế nào, những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc vẫn vẹn nguyên giá trị. Những tư tưởng lớn trong Di chúc “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân 24 tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”P24F .P 22 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII,Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 20. 23 V.I. Lênin (2006), Toàn tập, Tập 42, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.311. 24 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.88. 218
File đính kèm:
- di_chuc_cua_chu_tich_ho_chi_minh_voi_van_de_giao_duc_dao_duc.pdf