Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam nhằm phục hồi và phát triển kinh tế năm 2021
Bài nghiên cứu của tác giả về đề tài “Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia của Việt Nam nhằm phục hồi và phát triển kinh tế năm 2021” bao gồm 3 phần chính:
Cơ sở lý thuyết; Nội dung và kết quả nghiên cứu; Đề xuất một số giải pháp. Bài nghiên cứu tập
trung nghiên cứu về Năng lực cạnh tranh, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0), thực
trạng năng lực cạnh tranh toàn cầu trên thế giới, thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2020 trong bối
cảnh đại dịch COVID-19, phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, từ
đó đề ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam nhằm phục hồi và phát triển kinh tế năm 2021
ịnh, thủ tục nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, từng bước tạo lập thể chế chính sách vượt trội nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo Hình 2.1. Kết quả năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019, Diễn đàn Kinh tế Thế giới Trong 12 trụ cột của chỉ số GCI 4.0, Việt Nam có tới 8 trụ cột tăng điểm và tăng bậc, trong đó trụ cột ứng dụng CNTT tăng điểm và tăng hạng nhiều nhất, sau đó là trụ cột thị trường sản phẩm, tiếp theo là các trụ cột mức độ năng động trong kinh doanh, trụ cột thị trường lao động, trụ cột năng lực đổi mới sáng tạo, trụ cột thể chế, trụ cột kỹ năng, trụ cột quy mô thị trường. Trụ cột ổn định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm số và thứ hạng. Ba trụ cột giảm thứ hạng là: trụ cột hệ thống tài chính, trụ cột y tế và trụ cột cơ sở hạ tầng. Cụ thể về điểm số và thứ hạng của các trụ cột được thể hiện rõ trong Bảng 2.2. Bảng 2.2. Sự thay đổi điểm và thứ hạng của 12 trụ cột GCI 4.0 Việt Nam STT Tên trụ cột Thay đổi điểm và thứ hạng 1 Trụ cột 1: Thể chế TĂNG 0,3 điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89). Cụ thể: - Nhóm chỉ số thể hiện Mức độ định hướng tương lai của Chính phủ tăng 35 bậc (từ xếp hạng 75 lên vị trí 40), - Chỉ số về Quy định pháp lý thích ứng linh hoạt với mô hình kinh doanh đạt 43,1 điểm và ở vị trí 71, - Chỉ số Ổn định chính sách đạt 50,3 điểm và thứ hạng 67. 2 Trụ cột 2: Cơ sở hạ tầng TĂNG 0,5 điểm, nhưng GIẢM 2 bậc KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 312 STT Tên trụ cột Thay đổi điểm và thứ hạng 3 Trụ cột 3: Ứng dụng CNTT TĂNG 25,7 điểm và 54 bậc (từ 43,3 điểm lên 69,0 điểm và từ vị trí 95 lên vị trí 41). Tất cả các chỉ số thành phần trong trụ cột này đều tăng điểm, tăng hạng (như Thuê bao internet cáp quang, Thuê bao di động, Thuê bao di động băng thông rộng, Số người sử dụng internet, Thuê bao Internet băng thông rộng cố định). 4 Trụ cột 4: Ổn định kinh tế vĩ mô KHÔNG thay đổi điểm số và thứ hạng (giữ ở mức 75 điểm và thứ hạng 64). 5 Trụ cột 5: Y tế GIẢM 0,5 điểm và 3 bậc (từ 81 điểm xuống 80,5 điểm và từ vị trí 68 xuống vị trí 71). 6 Trụ cột 6: Kỹ năng TĂNG 2,7 điểm và 4 bậc (từ vị trí 97 lên vị trí 93) Cụ thể: - Chất lượng đào tạo nghề tăng 13 bậc, - Kỹ năng của học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp tăng 12 bậc, - Mức độ đào tạo nhân viên và Mức độ dễ dàng tìm kiếm lao động lành nghề cùng tăng 8 bậc, - Tư duy phản biện trong giảng dạy tăng 7 bậc. 7 Trụ cột 7: Thị trường hàng hoá TĂNG 23 bậc (từ vị trí 102 lên thứ 79) Cụ thể: - Các tiêu chí về thuế và trợ cấp, mức độ thống trị thị trường ảnh hưởng tới môi trường cạnh tranh, cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ và mức độ rào cản phi thuế quan được cải thiện. 8 Trụ cột 8: Thị trường lao động TĂNG 2,6 điểm và 7 bậc (từ thứ 90 lên thứ hạng 83) Cụ thể: - Di cư lao động trong nước tăng 27 bậc, - Mức độ dễ dàng trong tuyển dụng lao động nước ngoài tăng 22 bậc, - Mức độ linh hoạt của tiền lương tăng 15 bậc, - Quan hệ giữa người lao động - người sử dụng lao động và Thực tiễn tuyển dụng và sa thải lao động đều tăng 10 bậc, - Quyền của người lao động chưa được đảm bảo, giảm 4 điểm và giảm 11 bậc từ vị trí 82 xuống vị trí 93. 9 Trụ cột 9: Thị trường tài chính TĂNG 1,6 điểm, nhưng GIẢM 1 bậc. 10 Trụ cột 10: Quy mô thị trường TĂNG 0,9 điểm và 3 bậc (từ vị trí 29 lên vị trí 26) Cụ thể: - Tỷ lệ nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ so với GDP tăng nhẹ (xếp thứ 6 năm 2019 so với thứ 7 năm 2018). - Thị trường tiêu thụ nội địa lớn với tổng dân số hơn 96 triệu người và thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 313 STT Tên trụ cột Thay đổi điểm và thứ hạng 11 Trụ cột 11: Năng động trong kinh doanh TĂNG 12 bậc (từ vị trí 101 lên vị trí 89). Cụ thể: -Tất cả các chỉ số thành phần trừ chỉ số “phá sản doanh nghiệp” đều tăng 12 Trụ cột 12: Năng lực đổi mới sáng tạo TĂNG 6 bậc (từ thứ hạng 82 lên thứ hạng 76). Cụ thể: - Mức độ phát triển các cụm ngành tăng 33 bậc, - Tính đa dạng của lực lượng lao động tăng 16 bậc, - Hợp tác đa bên tăng 17 bậc, - Mức độ tinh thông của người mua tăng 46 bậc, - Chi phí R&D tăng 6 bậc. Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019, Diễn đàn Kinh tế Thế giới Các trụ cột có xếp hạng dưới xếp hạng chung về năng lực cạnh tranh toàn cầu (đánh giá 141 nền kinh tế) gồm: thể chế (xếp thứ hạng 89), cơ sở hạ tầng (xếp hạng 77), y tế (xếp hạng 71), kỹ năng (xếp hạng 93), thị trường hàng hóa (xếp hạng 79), thị trường lao động (xếp hạng 83), mức độ năng động trong kinh doanh (xếp hạng 89), năng lực đổi mới sáng tạo (xếp hạng 76). Bảng 2.3. Một số chỉ số thành phần suy giảm mạnh STT Chỉ số thành phần Mức độ suy giảm 1 Mức độ minh bạch về ngân sách GIẢM 42 bậc (từ vị trí 42 xuống vị trí 84). 2 Mức độ tiếp xúc với nước uống không an toàn GIẢM 13 bậc (từ vị trí 95 xuống vị trí 82) 3 Hiệu quả dịch vụ cảng biển GIẢM 5 bậc (từ vị trí 88 xuống vị trí 83). 4 Nguồn vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa GIẢM 12 bậc (từ vị trí 85 xuống vị trí 97) 5 Mức độ phục hồi sản xuất kinh doanh GIẢM 3 bậc (từ vị trí 109 xuống vị trí 112) 6 Khuôn khổ pháp lý về giải quyết phá sản GIẢM 5 bậc (từ vị trí 93 xuống vị trí 98) 7 Mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo hiểm GIẢM 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61) Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019, Diễn đàn Kinh tế Thế giới Kết quả này cho thấy, tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn so với nhiều nền kinh tế. Như vậy, có thể nhận thấy, cho đến nay, năng lực cạnh tranh của Việt Nam có thay đổi và được cải thiện rất nhiều so với những năm trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh đó, khách quan nhìn nhận cũng phải thấy rằng, so với thế giới và kể cả khu vực, ASEAN vẫn còn ở mức thấp và còn những hạn chế về các chỉ tiêu cần tiếp tục được cải thiện. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 314 2.3. Đề xuất một số giải pháp Trong bản báo cáo đặc biệt về năng lực cạnh tranh toàn cầu 2020, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đề xuất các nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh toàn cầu cho các quốc gia trên thế giới, bao gồm: 1. Phục hồi và chuyển đổi môi trường thuận lợi; 2. Phục hồi và chuyển đổi vốn nhân lực; 3. Phục hồi và chuyển đổi thị trường; 4. Phục hồi và chuyển đổi hệ sinh thái đổi mới. Đối với Việt Nam, việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Tác giả dựa vào thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2020, cùng với thực trạng năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá, kèm theo khuyến nghị của Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong bản báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2020, để đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cho Việt Nam. Tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu sau nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời kỳ đại dịch COVID-19: - Nhóm giải pháp phục hồi và thay đổi tạo môi trường kinh doanh thuận lợi Để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, nhóm giải pháp phục hồi và thay đổi tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nên có những giải pháp liên quan tới thể chế, cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin và ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể: Thứ nhất, Chính phủ cần thực sự ưu tiên nâng cao năng lực tư duy dài hạn trong Chính phủ, tức là mức độ định hướng tương lai của Chính phủ cần được quan tâm nhiều hơn nữa, ngoài ra, Chính phủ nên linh hoạt đối với các quy định liên quan tới các mô hình kinh doanh, doanh nghiệp... Trong giai đoạn này, để có thể vừa thay đổi, vừa ổn định được chính sách, Chính phủ cần có những nguyên tắc quản trị rõ ràng để lấy được lòng tin của người dân nhiều hơn nữa. Thứ hai, sự nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng cũng là một giải pháp có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh đô thị một cách hoàn hảo. Thứ ba, về công nghệ thông tin, cần đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phủ rộng internet, thuê bao di động nhiều hơn nữa tới người dân, đặc biệt những khu vực miền núi, nghèo khó. Thứ tư, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất các yếu tố tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và tăng cường đổi mới sáng tạo, cần đưa ra mục tiêu về việc tăng điểm và thứ hạng đối với trụ cột này (hiện tại điểm số và thứ hạng 2 năm gần đây không có sự thay đổi). - Nhóm giải pháp phục hồi và phát triển nguồn nhân lực Đại dịch COVID-19 đã dẫn tới những thách thức đối với thị trường lao động, nhiều lao động mất việc làm, giảm thu nhập... thậm chí sự không phù hợp về kỹ năng, thiếu hụt nhân tài cũng là những vấn đề cần được giải quyết. Vì vậy, để giải quyết, thay vì tập trung vào các kế hoạch phức tạp, chung chung, chúng ta cần phải chú ý hơn việc tạo lập các cơ hội thị trường lao động mới, mở rộng quy mô các chương trình đào tạo và nâng cao kỹ năng, cũng như các chính sách thị trường lao động đang hoạt động cần được xem xét kỹ lại. Đặc biệt, việc tạo lập và đầu tư vào chương trình giáo dục các kỹ năng cần thiết cho công việc ở “thị trường tương lai”. Đồng thời, cuộc khủng hoảng COVID-19 thực sự đã nêu bật lên vấn đề về hệ thống chăm sóc sức khoẻ, mặc dù Việt Nam là một điểm sáng trong chiến dịch chống COVID-19 trên toàn thế giới, nhưng không thể phủ nhận sự tụt hậu, thiếu hụt về hệ thống chăm sóc sức khoẻ so với mức độ gia tăng dân số, điều này được thể hiện trong chỉ số GCI 4.0 được đánh giá năm 2019, về trụ KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 315 cột y tế chúng ta đứng ở vị trí 71/141 quốc gia. Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh, sự cải cách, mở rộng năng lực hệ thống y tế là thực sự cần thiết. Về lâu dài, cần mở rộng thêm cơ sở hạ tầng, quan tâm hơn nữa tới vấn đề già hóa dân số, chăm sóc trẻ em và sức khoẻ toàn dân. - Nhóm giải pháp phục hồi và thúc đẩy thị trường Trong những năm gần đây, Việt Nam có bước tiến đáng kể trong việc thúc đẩy thị trường. Tuy nhiên không phải vì vậy mà chúng ta chủ quan. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, vì vậy đây là nhóm giải pháp chúng ta nên tập trung để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời điểm hiện tại. Việt Nam hiện tại đã có những gói hỗ trợ doanh nghiệp đạt được những kết quả tốt, cần duy trì và tiếp tục phát huy, tăng khả năng tiếp cận tài chính cho những doanh nghiệp phù hợp. Cần tiếp tục phát huy các chính sách đang thể hiện tốt giúp năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam tăng nhanh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, cần có một số điểm chú ý về thị trường tài chính, quyền của người lao động. Nhất là trong thời kỳ đại dịch COVID-19 như hiện nay, sự giảm sút về độ mở thương mại và sự di chuyển của người dân ra quốc tế bị đình trệ, chúng ta cần cân bằng giữa hàng hóa xuất nhập khẩu, cũng như thúc đẩy lưu thông hàng hóa nội địa. - Nhóm giải pháp phục hồi và chuyển đổi hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nhất là trong giai đoạn hồi sinh hiện nay, Việt Nam nên mở rộng đầu tư công và R&D, khuyến khích đầu tư mạo hiểm và R&D trong khu vực tư nhân, đồng thời thúc đẩy đầu tư kinh doanh vào các công ty mới và việc làm ở thị trường tương lai. Về lâu dài, để có sự phát triển và cạnh tranh tốt, Việt Nam nên đầu tư vào việc hỗ trợ và tạo nên động lực cho các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào nghiên cứu, đổi mới và phát minh những ý tưởng về khoa học công nghệ. 3. Kết luận và khuyến nghị Kinh tế Việt Nam năm 2020 chịu ảnh hưởng nặng nề về kinh tế và xã hội do suy thoái kinh tế sâu sắc do đại dịch COVID-19 gây ra. Hàng loạt những hậu quả như tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh, tỷ lệ đói nghèo cũng đang tăng trở lại sau hàng loạt các nỗ lực giảm nghèo của vài thập kỷ vừa qua, hàng loạt các doanh nghiệp phá sản... cũng là những khó khăn của Việt Nam trong con đường phục hồi và phát triển nền kinh tế. Đối với Việt Nam, việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Tác giả dựa vào thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2020, cùng với thực trạng năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới đánh giá, kèm theo khuyến nghị của Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong bản báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2020, để đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cho Việt Nam. Các nhóm giải pháp chính bao gồm: nhóm giải pháp phục hồi và thay đổi tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; nhóm giải pháp phục hồi và phát triển nguồn nhân lực; nhóm giải pháp phục hồi và thúc đẩy thị trường; nhóm giải pháp phục hồi và chuyển đổi hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, để phục hồi và phát triển bền vững, Việt Nam cần thực sự ưu tiên năng cao năng lực tư duy dài hạn trong chính phủ, tức là mức độ định hướng tương lai của Chính phủ cần được quan tâm nhiều hơn nữa, ngoài ra, Chính phủ nên linh hoạt đối với các quy định liên quan tới các mô hình kinh doanh, doanh nghiệp... cải thiện cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phủ rộng internet, thuê bao di động nhiều hơn nữa tới người dân, đặc biệt những khu vực miền núi, nghèo khó, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất các yếu tố tổng hợp. Ngoài ra, chúng ta cần phải chú ý hơn việc tạo lập các cơ hội thị KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 316 trường lao động mới, mở rộng quy mô các chương trình đào tạo và nâng cao kỹ năng, tạo lập và đầu tư vào chương trình giáo dục các kỹ năng cần thiết cho công việc ở “thị trường tương lai”, cần mở rộng thêm cơ sở hạ tầng, quan tâm hơn nữa tới vấn đề già hóa dân số, chăm sóc trẻ em và sức khoẻ toàn dân. Cần duy trì và tiếp tục phát huy, tăng khả năng tiếp cận tài chính gói hỗ trợ cho những doanh nghiệp phù hợp. Về lâu dài, để có sự phát triển và cạnh tranh tốt, Việt Nam nên đầu tư vào việc hỗ trợ và tạo nên động lực cho các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào nghiên cứu, đổi mới và phát minh những ý tưởng về khoa học công nghệ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cấn Văn Lực, Việt Nam cần làm gì để tiếp tục cải thiện năng lực cạnh tranh trong các năm tới?, 2. Chính phủ (2020), Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2020 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020. 3. Klaus Schwab (2020), The Global Competitiveness Report 2020, World Economic Forum. 4. Klaus Schwab (2019), The Global Competitiveness Report 2019, World Economic Forum. 5. Nguyễn Viết Nam (2019), Xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019: Việt Nam đạt quán quân trong tăng điểm và tăng hạng, https://vjst.vn; 6. Nguyễn Minh Thảo (2019), Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Việt Nam qua từng chỉ số, 7. Vũ Tiến Lộc (2020), Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp, Đề tài nghiên cứu.
File đính kèm:
- de_xuat_mot_so_giai_phap_nang_cao_nang_luc_canh_tranh_quoc_g.pdf