Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin

I. Quan hệ giữa vật chất và ý thức

1. Trình bày vật chất, ý thức

1.1. Vật chất

a) Phạm trù vật chất

Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2.500 năm.

Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diển ra cuộc đấu tranh không khoan

nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng giống những phạm

trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của

con người.

Theo Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho

đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được. Khi định nghĩa vật chất không thể

quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng

hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định

nghĩa vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy, vật

chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy Lênin đã đưa ra định

nghĩa kinh điển về vật chất:

“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho

con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn

tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất:

Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với

khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (tức khái niệm dùng

để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính; những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự

nhiên hay xã hội). Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa,

trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên

nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.

Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất được khái quát

trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan,

tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người,

cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 1

Trang 1

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 2

Trang 2

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 3

Trang 3

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 4

Trang 4

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 5

Trang 5

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 6

Trang 6

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 7

Trang 7

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 8

Trang 8

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 9

Trang 9

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 26 trang xuanhieu 4460
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn Triết học Mác-Lênin
 dài ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội sản sinh ra nó đã được thay 
21/26
đổi căn bản. 
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, chủ 
nghĩa duy vật lịch sử đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng 
của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển 
của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn 
của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát 
triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên, suy đến cùng, khả năng 
phản ánh vượt trước ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó.
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý 
luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở 
kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư 
tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn 
phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng đã cho thấy những giai đoạn 
hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật v.v nhiều khi không phù hợp 
hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của 
chúng. 
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm cho 
trong mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tích chất không thể giải thích được một 
cách trực tiếp từ tồn tại tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo 
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác 
động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Ngày nay, trong sự tác động lẫn nhau giữa các 
hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị thường có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính 
trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các 
hình thái ý thức khác.
Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội. 
Theo Ph.Ăngghen: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, 
nghệ thuật v.v đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh 
hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế” (6). Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối 
với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các 
mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò của giai cấp mang ngọn cờ tư 
tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; 
vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng; v.v Cũng do đó, ở đây cần phân biệt 
vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã 
hội.
Quan điểm duy vật mácxít về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã 
hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là một trong những nguyên lý cơ bản của 
chủ nghĩa duy vật lịch sử, một trong những cơ sở phương pháp luận căn bản của hoạt động 
22/26
nhận thức và thực tiễn. 
IV. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử 
của quần chúng nhân dân 
1. Con người và bản chất của con người 
Vấn đề con người luôn là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong các học 
thuyết triết học. Song, vì hiểu về con người, bản chất của con người, vị trí vai trò của con 
người, v.v. khác nhau nên khi trả lời cho các câu hỏi về giải phóng con người cũng có nhiều 
quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trên cơ sở khái quát những quan điểm lớn về 
con người trong lịch sử, chương “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người” đề 
cập đến những vấn đề cơ bản nhất về con người. 
a) Con người một thực thể tự nhiên(sinh học) – xã hội 
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện 
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở 
khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa 
duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng 
“là thân thể vô cơ của con người”. Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại 
khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là “người” 
chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai 
cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại,  Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương 
diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
Một là, nó.xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải 
chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội 
của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người 
có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. 
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của 
nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì 
mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của 
mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. 
Như vậy con người không phải là một động vật thuần túy mà là một “ động vật xã 
hội”, một thực thể sinh vật (tự nhiên) – xã hội. Thực thể tự nhiên và thực thể xã hội ở con 
người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể tự nhiên là tiền đề mà trên cái tiền đề đó thực 
thể xã hội tôn tại và phát triển.
b) Con người là chủ thể của lịch sử 
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của 
nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng 
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu lý 
23/26
giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ 
bản tính xã hội của nó thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn 
đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
Hoạt động của con người làm ra lịch sử nên để có lịch sử trước hết phải có con 
người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những con người sống, vì vậy, hành 
động lịch sử đầu tiên, khách quan, tất yếu là hành động lao động sản xuất để con người tách 
khỏi động vật.
Con người làm ra lịch sử nhưng không phải là lảm theo ý muốn tùy tiện của mình, 
mà là trong những điều kiện có sẵn, do quá khứ để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi thế hệ 
một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong hoàn cảnh mới, mặt khác tiếp tục 
các hoạt động mới của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ. Như vậy, con người vừa là sản phẩm 
của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
c) Bản chất của con người 
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản 
tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những quan 
niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, 
C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản 
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính 
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” 
Quan niệm duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên 
của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện 
bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản 
chất nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của 
giới tự nhiên. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó, 
chính là “tổng hòa của các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được 
tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,
Quan điểm của C. Mác cho thấy:
- Bản chất con người không phải là cái trừu tượng, cố hữu. Bản chất con người 
hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Đấy là những con người cụ 
thể, sống trong những hoàn cảnh cụ thể mà ở đó bản chất con người được bộc lộ ở 
những mức độ cụ thể.
- Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. 
Các quan hệ này có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng xâm nhập vào nhau, 
tràn lan vào nhau, phát huy hoặc kìm hãm tác dụng của nhau.
- Khi các quan hệ xã hội (nhất là quan hệ kinh tế) thay đổi thì sớm hay muộn bản 
chất của con người cũng có sự thay đổi. Như vậy, bản chất của con người không 
phải được sinh ra mà được sinh thành.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người có thể rút ra ý nghĩa 
phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ 
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định 
24/26
phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng 
tạo lịch sử của con người. Vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con 
người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã 
hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của 
nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa 
phương pháp luận đó có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng 
xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và 
bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của của con người. 
2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân 
dân
a) Khái niệm quần chúng nhân dân
Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải là theo phương thức hành vi đơn 
lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi con người mà là theo phương thức liên kết những con người thành sức 
mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội 
nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội 
– cộng đồng đó chính là quần chúng nhân dân.
Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân bao gồm: Thứ 
nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần; đó là hạt 
nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân. Thứ hai, những bộ phận dân cư chống 
lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân. Thứ ba, những giai 
cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc 
gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b) Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức 
đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có 
nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các 
vấn đề xã hội.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân 
chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và 
căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống 
kinh tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần 
chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản 
xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội – đây là nhu 
cầu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời 
cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội. 
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách 
25/26
mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. 
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai 
trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay 
ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lênin: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai 
cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình 
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo 
phong trào” .
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân 
dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận 
khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần 
chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu dài 
trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. Đồng 
thời, đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử 
cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ 
trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một 
phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng 
lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự liên minh 
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng 
sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp 
cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thắng lợi cuối cùng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin (của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo) Nxb CTQG, Hà Nội, 2006.
2. Câu hỏi và bài tập triết học (Chủ nghĩa duy vật biện chứng), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội , 2005.
3. Đề cương Hướng dẫn ôn tập môn Triết học của Bộ môn Lý luận chính trị Trường đại học Tôn Đức 
Thắng, năm 2009.
 TP. HCM, ngày 30 tháng 11 năm 2009
Hiệu trưởng duyệt
(đã ký)
NGƯT,.TS. LÊ VINH DANH
Trưởng khoa/Trưởng bộ môn 
Lý luận chính trị
(đã ký)
TS. THÁI HỮU TUẤN
26/26

File đính kèm:

  • pdfde_cuong_on_thi_tot_nghiep_mon_triet_hoc_mac_lenin.pdf