Đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại tại huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh
Kinh tế trang trại được xem là hình thức tổ chức tiên tiến và phát triển kinh
tế trang trại là bước đi tất yếu, phổ biến của tất cả các nền sản xuất nông
nghiệp trên thế giới. Những năm qua, kinh tế trang trại tại huyện Ba Chẽ,
tỉnh Quảng Ninh đã từng bước được hình thành và phát triển nhưng chưa
đáp ứng được nhu cầu thực tế và tiềm năng của địa phương. Nghiên cứu
này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng phát triển các mô hình trang
trại trên địa bàn huyện Ba Chẽ qua thu thập số liệu, so sánh, hạch toán chi
phí sản xuất, thống kê mô tả. Kết quả cho thấy, nhiều trang trại dù đã được
cấp Giấy chứng nhận kinh tế trang trại và được quan tâm hỗ trợ theo cơ chế,
chính sách của huyện, tỉnh nhưng vẫn hoạt động kém hiệu quả, còn lúng
túng trong việc quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh và tìm kiếm thị
trường. Thêm vào đó là trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của chủ
trang trại còn thấp; Số trang trại thiếu vốn sản xuất kinh doanh còn chiếm tỷ
lệ lớn (60% tổng số trang trại tại huyện); sản phẩm của trang trại gặp khó
khăn trong khâu tiêu thụ chiếm 80%; thiếu khoa học kỹ thuật chiếm 60%;
thiếu thông tin về kinh tế thị trường,. Từ thực trạng trên bài viết đề xuất
một số giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Ba Chẽ trong thời gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại tại huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh
ân cho 1 trang trại Bảng 5. Hiệu quả sử dụng chi phí của các trang trại (Đơn vị tính: lần) TT Phân theo hướng kinh doanh chính GO/IC VA/IC MI/IC 1 Trang trại lâm nghiệp 2,68 1,68 0,88 2 Trang trại chăn nuôi 1,76 0,82 0,47 3 Trang trại nuôi thuỷ sản 1,93 0,93 0,60 4 Trang trại tổng hợp 2,4 1,17 0,85 (Nguồn: Số liệu điều tra trang trại năm 2019) TNU Journal of Science and Technology 226(08): 119 - 127 124 Email: jst@tnu.edu.vn Hiệu quả sử dụng chi phí của các trang trại được thể hiện tại bảng 5 cho thấy: Giữa các loại hình trang trại với nhau thì trang trại sử dụng hiệu quả đồng vốn cao nhất là trang trại trồng cây lâm nghiệp (một đồng trồng cây lâm nghiệp IC tạo ra 2,68 đồng GO; 1,68 đồng VA và 0,88 đồng MI). Tiếp đến trang trại tổng hợp (một đồng đầu tư kinh doanh IC tạo ra 2,4 đồng GO; 1,17 đồng VA và 0,85 đồng MI); trang trại nuôi trồng thủy sản (một đồng nuôi trồng thủy sản IC tạo ra 1,93 đồng GO; 0,93 đồng VA và 0,60 đồng MI). Trang trại có hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp là trang trại chăn nuôi (một đồng IC sẽ tạo ra 1,76 đồng GO; 0,82 đồng VA và 0,47 đồng MI). Đối với trang trại chăn nuôi, do ảnh hưởng của dịch bệnh như dịch tả lợn châu Phi, H5N1 ở gà, vịt; giá cả các yếu tố đầu vào tăng, bên cạnh đó do các yếu tố chi phí đầu vào cao, nên hiệu quả mang lại còn thấp, tuy nhiên thời gian quay vòng vốn nhanh hơn các mô hình khác. Qua phân tích cho thấy, hiệu quả sử dụng chi phí của trang trại SXKD lâm nghiệp cao hơn các trang trại khác, bởi đồng vốn đầu tư, chi phí về lao động và chăm sóc ít hơn. b) Tính bình quân cho 1 ha diện tích canh tác Bảng 6. Hiệu quả sử dụng đất canh tác của các trang trại ĐVT: triệu đồng STT Phân theo hướng kinh doanh chính GO/1Ha MI/1Ha 1 Trang trại lâm nghiệp 41,77 13,71 2 Trang trại chăn nuôi 69,69 18,65 3 Trang trại nuôi thuỷ sản 90,26 28,21 4 Trang trại tổng hợp 74,06 26,34 (Nguồn: Số liệu điều tra trang trại năm 2019) Hiệu quả sử dụng đất canh tác của các trang trại tại bảng 6 cho thấy trang trại nuôi thủy sản có giá trị sản xuất và thu nhập hỗ hợp cao nhất trong 4 loại hình trang trại, tiếp theo là đến trang trại tổng hợp, trang trại chăn nuôi và trang trại lâm nghiệp. Sở dĩ các trang trại chăn nuôi có thu nhập hỗn hợp và giá trị sản xuất thấp vì trong năm 2019 là một năm đầy biến động của ngành chăn nuôi như giá thức ăn chăn nuôi biến động liên tục, dịch bệnh làm cho giá đầu ra của chăn nuôi biến động, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của các trang trại chăn nuôi. Có hiệu quả cao nhất trên 1 ha diện tích là ngành thủy sản với sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch trong năm 2019. 3.3. Những khó khăn, hạn chế trong phát triển kinh tế trang trại tại huyện Ba Chẽ 3.3.1. Những khó khăn và nguyện vọng từ phía các trang trại được điều tra - Những khó khăn: Bảng 7. Khó khăn của các trang trại được điều tra tại huyện Ba Chẽ năm 2019 Nội dung Số trang trại Tỷ lệ (%) Thiếu đất 01 10 Thiếu vốn và khó tiếp cận với vay tín dụng 06 60 Khó tiêu thụ sản phẩm 08 80 Thiếu hiểu biết khoa học kỹ thuật 06 60 Thiếu thông tin về thị trường 04 40 Khó khăn trong quản lý chất lượng sản phẩm 04 40 Ít được thăm quan, học hỏi mô hình trang trại hoạt động hiệu quả 06 60 (Nguồn: Số liệu điều tra trang trại năm 2019) Từ kết quả điều tra (bảng 7) đã chỉ ra một số khó khăn hiện tại mà các trang trại gặp phải như: Khó tiêu thụ sản phẩm là 08/10 trang trại (chiếm 80%); Thiếu nguồn vốn, khó tiếp cận với vay tín dụng, thiếu hiểu biết về khoa học kỹ thuật, ít được thăm quan, học hỏi mô hình trang trại hoạt động có hiệu quả là 06/10 trang trại (chiếm 60%); thiếu thông tin về thị trường, gặp khó khăn trong quản lý chất lượng sản phẩm 04/10 trang trại (chiếm 40%). Thiếu đất là 01/10 trang trại (chiếm 10%). Trong đó khó khăn lớn nhất mà hầu hết các trang trại đang gặp phải là khó khăn về thị trường tiêu TNU Journal of Science and Technology 226(08): 119 - 127 125 Email: jst@tnu.edu.vn thụ bởi hàng hóa chủ yếu dựa vào thương lái buôn và bán thủ công nên thị trường không ổn định về mức giá. Nhiều lúc được mùa, năng suất cao thì giá thành sản phẩm lại bị thương lái ép giá. Chưa có cơ chế phát triển thị trường và thương hiệu cho các sản phẩm để mang tính chất ổn định về đầu ra, nên người dân luôn lo lắng về vấn đề đầu ra cho sản phẩm của trang trại mình. Ngoài ra, các khó khăn về tiếp cận khoa học, nguồn vốn, mô hình trang trại phát triển vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. - Những nguyện vọng Bảng 8. Nguyện vọng của các chủ trang trại được điều tra tại huyện Ba Chẽ Nội dung Số trang trại Tỷ lệ (%) Được hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm 10 100 Được vay vốn ngân hàng 10 100 Được thăm quan, học hỏi các mô hình trang trại hoạt động có hiệu quả 08 80 Được tiếp cận thường xuyên thông tin về thị trường 10 100 Được hỗ trợ quản lý chất lượng sản phẩm 06 60 Được hỗ trợ đào tạo kiến thức quản lý, khoa học kỹ thuật 10 100 (Nguồn số liệu điều tra trang trại năm 2019) Nguyện vọng của các chủ trang trại được điều tra thể hiện rõ trong bảng 8 cho thấy: nguyện vọng được hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, vay vốn ngân hàng, tiếp cận thường xuyên với thông tin thị trường và được hỗ trợ đào tạo kiến thức quản lý, khoa học kỹ thuật là cả 10/10 chủ trang trại đều có nguyện vọng (chiếm tỷ lệ 100%); tiếp là nguyện vọng được tham quan học hỏi các mô hình trang trại hoạt động có hiệu quả là 08/10 trang trại (chiếm 80%) và 6/10 chủ trang trại có nguyện vọng được hỗ trợ quản lý chất lượng sản phẩm. Tất cả các chủ trang trại đều có nguyện vọng làm thế nào để ngày càng phát triển trang trại của mình. Điều này đặt ra các vấn đề đối với các cấp lãnh đạo của huyện Ba Chẽ làm cách nào để tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định cho người dân, hướng dẫn người dân tiếp cận nguồn vốn, để phát triển mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn. 3.3.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân Qua nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại tại huyện Ba Chẽ cho thấy một số tồn hạn hạn chế mà các trang trại đang gặp phải hiện nay là: Đa số các trang trại đang hoạt động tại huyện Ba Chẽ đều có quy mô nhỏ, còn mang tính tự phát, chưa đồng đều. Chủ trang trại ít được tham gia học tập các lớp về kỹ năng kinh doanh, quản lý, kinh tế thị trường; được tham gia thăm quan, học tập các mô hình trang trại hoạt động có hiệu quả. Một số chủ trang trại chưa quan tâm cập nhật các thông tin về thị trường, dẫn đến khi giá cả trên thị trường thay đổi, không kịp phản ứng trước sự thay đổi của thị trường. Địa hình của huyện bị đồi núi chia cắt, giao thông đi lại khó khăn nên gây ra nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm của trang trại làm ra. Do đó, 100% các sản phẩm của trang trại bán ra là bán cho tư thương và các hộ dân khác trên địa bàn. Hiện nay, chưa có một trang trại nào ký kết được hợp đồng với các doanh nghiệp, nhà máy để tiêu thụ sản phẩm cho trang trại. Xuất phát điểm về phát triển kinh tế xã hội của huyện Ba Chẽ còn thấp, phần lớn là người dân tộc thiểu số nên trình độ dân trí còn thấp, dẫn đến việc tiếp thu kiến thức khoa học kỹ thuật của chủ trang trại chưa qua đào tạo còn hạn chế (chiếm tới 60%). Nguồn kinh phí và nhân lực có hạn nên huyện chưa mở được nhiều và thường xuyên các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho chủ trang trại, đặc biệt là việc thăm quan, học tập các mô hình trang trại có hiệu quả, cho thu nhập cao. Vốn vay chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của các trang trại. Số trang trại thiếu vốn sản xuất kinh doanh chiếm tỷ lệ lớn (60% tổng số trang trại tại huyện). Trên địa bàn huyện hiện nay có nhiều trang trại hoạt động sản xuất, nhưng trong đó có 10 trang trại được cấp Giấy chứng nhận KTTT và 15 trang trại mới chỉ đạt được 70% tiêu chí. Tất cả các trang trại này đều chưa đáp ứng được điều kiện quy mô giá trị sản xuất [7], [11]. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 119 - 127 126 Email: jst@tnu.edu.vn Hiện nay, huyện chưa có các vùng quy hoạch chăn nuôi tập trung nên chưa có kế hoạch đưa các trang trại chăn nuôi vào vùng quy hoạch chăn nuôi tập trung, xa khu dân cư. Một số trang trại chăn nuôi vẫn gần khu dân cư, nước thải từ trang trại được thải trực tiếp ra ngoài môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của người dân ở xung quanh Chưa thực sự quyết liệt trong việc xử lý các trang trại, nhất là trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm gây ô nhiễm môi trường [12]. 3.4. Đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại tại huyện Ba Chẽ Xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại và từ quan điểm, định hướng phát triển kinh tế trang trại tại huyện Ba Chẽ đến năm 2025, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển KTTT trên địa bàn huyện Ba Chẽ trong thời gian tới như sau: 3.4.1. Giải pháp về đất đai Vận động, tuyên truyền để thay đổi nhận thức của người nông dân về sự cần thiết phải tích tụ, tập trung đất đai để sản xuất hàng hóa quy mô lớn còn chưa đầy đủ, chưa thống nhất. Nhất là nhận thức của người nông dân, mặc dù sản xuất nông nghiệp không hiệu quả, bản thân người nông dân cũng không có khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất, không gắn bó với nghề nông và tuy đã làm nghề khác nhưng vẫn có tâm lý cố giữ lấy ruộng đất như vật bảo đảm sinh kế cuối cùng nếu mất việc. 3.4.2. Giải pháp về chính sách tín dụng Áp dụng chế độ tín dụng tài trợ, sử dụng hình thức đi vay thông qua sự bảo lãnh vay của các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội như: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên [13]. Miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật khi thuê đất trống đồi núi trọc, đất hoang hoá, diện tích đất xen kẹp do UBND xã quản lý để trồng rừng, trồng cây lâu năm, cây bản địa vừa có giá trị kinh tế vừa có tác dụng bảo vệ nguồn nước và khi thuê diện tích các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản. 3.4.3. Giải pháp về thị trường Xây dựng các mô hình kinh tế trong nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường (ví dụ như mô hình VietGap, Occoop) Xây dựng thương hiệu nông sản chủ lực của địa phương đáp ứng được các yếu tố: sản xuất trên quy mô lớn với mức độ cơ giới hóa cao, có khối lượng và giá trị tiêu thụ lớn, chất lượng đồng đều, giá bán cạnh tranh, có khả năng đáp ứng được nhu cầu cả trong và ngoài nước. Tổ chức dự báo thị trường, mở rộng hình thức thông tin kinh tế. Khuyến khích thành lập hợp tác xã, tổ hợp dịch vụ chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm. Mở rộng và phát triển hệ thống tiêu thụ sản phẩm. Thiết lập hệ thống thông tin thị trường thông qua hệ thống Trung tâm Truyền thông và Văn hoá từ tỉnh, huyện xuống xã để kịp thời phát thanh về thông tin thị trường Việt Nam cũng như thế giới cho bà con nông dân nắm, không bị ép giá và định hướng sản xuất tốt. [14] 3.4.4. Giải pháp về khoa học công nghệ Tập trung nguồn lực khoa học công nghệ cho việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, phát triển nông nghiệp cao, nông nghiệp sạch. Hình thành các câu lạc bộ khuyến nông cho các chủ trang trại theo ngành sản xuất, như các trang trại sản xuất cây ăn quả, nuôi gà, vịt, nuôi lợn, nuôi trâu bò, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng với qui mô vừa và lớn, khối lượng hàng hóa nhiều ở từng địa phương, đi vào từng chuyên đề thiết thực. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 119 - 127 127 Email: jst@tnu.edu.vn Khuyến khích lập hợp tác xã liên kết tự nguyện giữa các trang trại cùng loại hình cây trồng, như vậy có thể tập hợp nguồn lực vốn, dễ đầu tư máy móc tốt và tận dụng hết công suất hiệu quả của máy [15]. 4. Kết luận KTTT ở huyện Ba Chẽ đã có sự phát triển qua các năm cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển của KTTT đã góp phần tạo ra việc làm cho các lao động khác trên địa bàn huyện từ đó tăng thêm thu thập cho người dân. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một số tồn tại đã và đang ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các trang trại như trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của chủ trang trại còn thấp; số trang trại thiếu vốn sản xuất kinh doanh còn chiếm tỷ lệ cao; chưa có thị trường ổn định để tiêu thụ sản phẩm; số trang trại áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn ít,... Trong thời gian tới, nhằm đẩy mạnh phát triển KTTT trên địa bàn huyện Ba Chẽ thì chính quyền địa phương cần phối hợp với các chủ trang trại thực hiện tốt một số giải pháp về đất đai, tín dụng, thị trường và khoa học công nghệ. TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES [1] Ministry of Agriculture and Rural Development, Final Report 2018, 2018. [2] P. H. Dinh, “Farm economy, a "breakthrough force" to promote sustainable agricultural development in Vietnam,” (in Vietnamese), Journal of Development and Integration, no. 8, pp. 16-19, December 2010. [3] Q. V. Le and D. C. Bui, "Farm economy development in Can Loc district, Ha Tinh province," (in Vietnamese), Science and Technology Journal of Agriculture and Rural Development, no. 5, pp. 10- 19, 2016. [4] K. H. Nguyen, "Development of farm economy in the market economy," (in Vietnamese), Science and Technology Journal of Agriculture and Rural Development, vol. 1, no. 57, pp. 12-15, April 2005. [5] V. T. Nguyen and V. S. Nguyen, "The efficiency of agricultural cooperatives in Ra Giai district, Bac Lieu province," (in Vietnamese), Science and Technology Journal of Agriculture and Rural Development, no. 6, pp. 9-15, 2015. [6] General Statistics Office, Press release on preliminary results of the Rural, Agricultural and Fishery Census, 2019. [7] Ministry of Agriculture and Rural Development, Circular No. 27/2011/TT-BNNPTNT dated 13/4/2011 of the regulating criteria and procedures for issuing farm economic certificates, 2011. [8] People's Committee of Quang Ninh province, Socio-economic plan of Quang Ninh province up to 2020, 2018. [9] Rural Development Sub-Department of Quang Ninh Province, Report on assessment of the implementation results of the tasks in 2019 and orientation and tasks for 2020, 2019. [10] Ba Che District Statistical Office, Ba Che District Statistical Yearbook, 2019. [11] Ministry of Agriculture and Rural Development, Circular No. 02/2020/TT-BNNPTNT dated 28/02/2020 of regulating farm economic criteria, 2020. [12] Division of Agriculture and Rural Development in Ba Che district, Report 2017, 2018, 2019. [13] Ministry of Agriculture and Rural Development, Policy to encourage farm economic development, August 28, 2016. [14] A. V. Le and D. D. Nguyen, Household and farm economic development associated with sustainable poverty reduction in the Central Highlands. Social Science Publishing House, (in Vietnamese), 2017. [15] Party Committee of Ba Che district, Resolution No. 01-NQ / ĐU, dated June 25, 2020 on the Resolution of the XXV Party Congress of Ba Che District, term 2020-2025, 2020.
File đính kèm:
- day_manh_phat_trien_kinh_te_trang_trai_tai_huyen_ba_che_tinh.pdf