Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bất động sản tại thành phố Hồ Chí Minh – thực trạng và một số vấn đề pháp lý
Nhiều năm liền, TPHCM được đánh
giá là một trong những điểm sáng về
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của cả nước và khu vực
Đông Nam Á. Thống kê các dự án lớn
được cấp phép trong những năm gần
đây cho thấy đa số các dự án có vốn
đầu tư nước ngoài tập trung ở các
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
và kinh doanh bất động sản. Đây là
các lĩnh vực mà Thành phố đẩy mạnh
công tác xúc tiến đầu tư. Từ số liệu
thống kê của Tổng cục Thống kê và
Cục Thống kê TPHCM, kết hợp phỏng
vấn sâu một số chuyên gia về đất đai,
bài viết đánh giá thực trạng đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực bất động
sản tại TPHCM, trên cơ sở đó phân
tích các mặt tích cực và hạn chế của
hoạt động đầu tư này từ góc độ chính
sách và luật pháp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bất động sản tại thành phố Hồ Chí Minh – thực trạng và một số vấn đề pháp lý
giao đất, số tiền sử dụng đất phải nộp Hội đồng thẩm định giá đất thành phố Thẩm định phương án xác định giá đất đơn vị tư vấn lập Cục Thuế Thông báo cho doanh nghiệp nộp tiền sử dụng đất Sở Tài nguyên MT Làm lại thủ tục từ đầu hoặc trả hồ sơ cho doanh nghiệp Sở Tài chính Xác định chi phí GPMB được khấu trừ vào tiền sử dụng đất Nguồn: Hiệp hội Bất động sản TPHCM, 2019. Nộp hồ sơ Đấu thầu qua mạng Không thuận Thuận T h u ậ n NGÔ HOÀNG OANH – KHUNG PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ 16 thời gian cũng như nguồn vốn, hay nói cách khác là “vỡ kế hoạch”, đặc biệt đối với các quỹ đầu tư tài chính, hệ quả là lỡ cơ hội đầu tư, kinh doanh. Có những dự án đã không tiếp tục thực hiện vì việc định giá đất cũng như quy trình xác định tiền sử dụng đất không được dự liệu một cách chính xác. Một hệ quả lớn hơn là các bất lợi này đều tính vào giá thành cuối cùng của sản phẩm và người sử dụng đất là người tiêu dùng phải chịu. Hiện nay, theo Thông tư Liên tịch số 87/2016/TT-TTLT-BTC-BTNMT và số 88/2016/TT-TTLT-BTC-BTNMT của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên Môi trường thì quy trình thực hiện xác định tiền sử dụng đất của dự án khá nhiều thủ tục. Đối với TPHCM, trước đây Sở Tài chính chủ trì toàn bộ công tác xác định, thẩm định giá đất dự án; hiện nay lại chia thành 2 công đoạn do hai sở quản lý, nhưng trên thực tế chưa có sự phối hợp ăn ý, đồng bộ: (1) công đoạn xác định phương án giá đất do Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì; (2) công đoạn thẩm định giá đất do Sở Tài chính chủ trì, theo sơ đồ quy trình ở Hình 1. Để khắc phục thực trạng trên, quy trình xác định giá đất nên giao cho Sở Tài chính là đầu mối chủ trì toàn bộ công tác thuê đơn vị tư vấn xác định giá đất; chuẩn bị nội dung trình Hội đồng thẩm định giá đất thành phố xem xét quyết định giá đất cụ thể để xác định tiền sử dụng đất dự án. Ngay cả việc lựa chọn đơn vị tư vấn xác định giá đất hiện nay cũng cần được điều chỉnh. Hiện nay cơ chế đấu thầu chọn đơn vị tư vấn xác định giá đất chỉ chọn đơn vị chào thầu với giá thấp nhất được trúng thầu (do quy định chi phí xác định giá đất, thẩm định giá đất do ngân sách chi), đề nghị thay thế bằng cơ chế đấu thầu rộng rãi nhưng với tiêu chí chọn đơn vị tư vấn xác định giá đất có năng lực, có phương án xác định giá đất tối ưu, chứ không phải chọn đơn vị có giá thấp nhất. 4.3. Quy định ký quỹ đối với các dự án có sử dụng đất Việc đảm bảo thực hiện dự án đầu tư dưới hình thức ký quỹ được quy định cụ thể tại Điều 32 Nghị định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. Theo đó, các dự án có sử dụng đất (do trúng đấu thầu, trúng đấu giá quyền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất, cho thuê đất) đều phải ký quỹ để bảo đảm thực hiện dự án. Số tiền ký quỹ phải được thực hiện sau khi dự án đầu tư được quyết định chủ trương đầu tư nhưng phải trước thời điểm giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất (đối với dự án phải quyết định chủ trương đầu tư) và vào thời điểm giao đất, thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất (đối với các dự án đầu tư không thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư). Số tiền ký quỹ đối với phần vốn đến 300 tỷ đồng, mức ký quỹ là 3%; đối với phần vốn trên 300 tỷ đồng đến 1.000 tỷ đồng, mức ký quỹ là 2%; đối với phần vốn trên 1.000 tỷ đồng, mức ký quỹ là 1%. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (255) 2019 17 Khảo sát thực tế việc thực hiện ký quỹ cho thấy quy định này khá khó khăn cho việc đầu tư. Lý do là các nhà đầu tư sẽ đưa nguồn vốn vào Việt Nam theo tiến độ dự án, nay ngoài việc nộp tiền sử dụng đất với cơ chế và trình tự thủ tục không rõ ràng, thời hạn kéo dài, việc ký quỹ sẽ làm nguồn tiền bị kẹt tại ngân hàng mà không được tính lãi. Trong khi đó, nhiều trường hợp các nhà đầu tư sử dụng vốn huy động tại các tổ chức tín dụng và các quỹ đầu tư tài chính. Việc nộp tiền sử dụng đất đã là sự khẳng định nhà đầu tư sẽ tiến hành đầu tư. Trong trường hợp họ không tiến hành đầu tư theo tiến độ thì nhà nước sẽ thu hồi quyền sử dụng đất theo các quy định hiện hành (2 năm kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), thay vì quy định ký quỹ như hiện nay. 4.4. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề rất nhạy cảm và phát sinh tranh chấp giữa người dân với chính quyền do giá đền bù không thỏa đáng. Luật Đất đai đã định ra cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất rất rõ ràng. Tuy nhiên trên thực tế không thực hiện đúng quy định này nên dẫn đến tình trạng đất đai được bồi thường không hợp lý và hệ quả là các tranh chấp khiếu kiện về đất đai diễn ra rất phổ biến, đặc biệt đối với các dự án có đầu tư nước ngoài. Mặt khác, Nghị định 43/2014/NĐ-CP đã có các cơ chế cho phép thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất và bồi thường giải phóng mặt bằng có hiệu quả và có lợi nhất cho người dân hiện nay. Theo đó Nhà nước có thể giao cho “Tổ chức phát triển quỹ đất” thực hiện giải phóng mặt bằng theo quyết định thu hồi đất để thực hiện kế hoạch sử dụng đất theo quy hoạch đã được duyệt, sau đó tiến hành đấu giá đất, hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất để lựa chọn nhà đầu tư. Như vậy, người có đất có điều kiện được bồi thường thỏa đáng, công bằng thì sẽ hạn chế tối đa việc khiếu kiện nhất là tình trạng khiếu kiện đông người về đất đai; các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội tiếp cận quỹ đất một cách minh bạch, bình đẳng; và tạo được nguồn thu ngân sách rất lớn. Tuy nhiên, chế định “Đấu thầu dự án có sử dụng đất” đối với các dự án xen cài quỹ đất công và quỹ đất dân cư chưa giải phóng mặt bằng đã được quy định trong Luật Đất đai 2003 nhưng không còn quy định trong Luật Đất đai 2013. Vì vậy cần bổ sung chế định “Đấu thầu dự án có sử dụng đất” đối với các dự án chưa giải phóng mặt bằng, khi xem xét, sửa đổi Luật Đất đai 2013. Điều này hợp lý đối với công tác giải phóng mặt bằng và phù hợp với các chế định được quy định tại Luật Nhà ở 2014 và Luật Đấu thầu 2014. 4.5. Bổ sung các quy định đối với các loại bất động sản mới hình thành trên thị trường Hiện nay, trên thị trường bất động sản Việt Nam, nhất là ở TPHCM xuất hiện và phát triển mạnh một số loại bất NGÔ HOÀNG OANH – KHUNG PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ 18 động sản mới như condotel, shophouse, hometel, officetel. Đây là các loại hình bất động sản chưa được quy định trong Luật Nhà ở hay Luật Kinh doanh bất động sản. Chính vì vậy Việt Nam chưa có các cơ chế quản lý hợp lý đối với các loại bất động sản này. Cụ thể như sau: - Thứ nhất chưa phân biệt giữa nhà ở hay office. Quy định tại Khoản 11 Điều 6 Luật Nhà ở 2014 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2015), nghiêm cấm “Sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích không phải để ở”. Thực hiện quy định này của Luật Nhà ở, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 10/12/2015) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở. Theo quy định tại Khoản 7 Điều 80, trường hợp trong giấy tờ đăng ký kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp có ghi sử dụng căn hộ chung cư làm địa điểm kinh doanh trước ngày Luật Nhà ở có hiệu lực thi hành thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được cấp giấy tờ đăng ký kinh doanh này phải chuyển hoạt động kinh doanh sang địa điểm khác không phải là căn hộ chung cư trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành (1/7/2016); cơ quan có thẩm quyền cấp giấy tờ đăng ký kinh doanh phải làm thủ tục điều chỉnh lại địa điểm kinh doanh ghi trong giấy tờ đăng ký kinh doanh đã cấp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sang địa điểm khác trong thời hạn quy định tại khoản này; “quá thời hạn” quy định tại khoản này thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân không được kinh doanh tại căn hộ chung cư. Để nâng cao hiệu lực thi hành của quy định này, ngày 27/11/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 139/2017/NĐ-CP, trong đó quy định cụ thể các chế tài xử phạt đối với vi phạm quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư. Như vậy rõ ràng việc các căn hộ chung cư được sử dụng như officetel, condotel trong các chung cư được đăng ký là căn hộ, không phải tòa nhà phức hợp, là vi phạm các quy định hiện hành về quản lý nhà ở. Các căn hộ chỉ được đăng ký là office nếu tọa lạc trong các khu riêng biệt dành cho office trong các tòa nhà phức hợp. Trên thực tế nhiều nhà chung cư đăng ký xây dựng là nhà ở thương mại nhưng đã dành nhiều căn hộ để bán dưới dạng officetel hoặc condotel. Rõ ràng đây là một lỗ hổng cần được lấp đầy trong các quy định về quản lý nhà ở. - Thứ hai, việc xây dựng và rao bán các căn hộ loại mới này cũng làm Nhà nước thất thu nguồn ngân sách lớn. Trên thực tế nhiều chủ dự án đã nộp tiền sử dụng đất thấp khi đăng ký dự án xây chung cư để ở, nhưng khi xây dựng các condotel, họ bán giá cao tương đương với các căn hộ hoặc các office trong các dự án nhà phức hợp (bao gồm cả khu văn phòng và khu căn hộ, nhà hàng). - Thứ ba, khó xác định loại hình bất động sản để cấp Giấy chứng nhận sở hữu. Hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa ra giải pháp, các công TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (255) 2019 19 trình có condotel và officetel nếu là để ở thì xác định là đất ở, thời hạn sử dụng đất của chủ dự án theo các quy định chung là từ 50 năm đến 70 năm tùy theo dự án. Người mua được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở và tài sản khác gắn liền với đất ổn định, lâu dài. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp xử lý trước mắt. Việc đưa ra các quy định pháp luật về quản lý nhà ở cần có tính tiên liệu cao hơn trong tương lai. 5. KẾT LUẬN Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bất động sản nói riêng và trong các lĩnh vực kinh tế nói chung đang đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của TPHCM. Xét về quy mô vốn trung bình của dự án thì ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô lớn nhất (3,8 triệu USD/dự án) và đứng thứ hai là các dự án thuộc kinh doanh bất động sản (3,5 triệu USD/dự án). Các dự án ngoài việc đóng góp vào ngân sách nhà nước còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội của Thành phố, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động của Thành phố. Tuy nhiên, lĩnh vực đầu tư nước ngoài vào bất động sản tại TPHCM cũng đặt ra nhiều vấn đề kinh tế xã hội và khung pháp luật như đã phân tích ở trên. Việc tháo gỡ các vướng mắc về mặt luật pháp cần phải được thực hiện kịp thời để lĩnh vực đầu tư này phát triển và mang lại những đóng góp lớn hơn cho nền kinh tế của Thành phố nói riêng, Việt Nam nói chung. CHÚ THÍCH (1) Năm 2010 cùng với việc Bộ Xây dựng trình Chính phủ xem xét Đồ án quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn 2050 là việc thị trường bất động sản Hà Nội chứng kiến một cơn sốt đất chưa từng thấy trong 10 năm trở lại, hàng loạt các dự án bất động sản và các tòa nhà cao tầng đã mọc lên cùng với quy hoạch hàng loạt các tuyến đường đô thị tại Hà Nội. Bên cạnh đó, các khu nhà nghỉ, resort đắt tiền cũng bắt đầu được đầu tư và đưa vào sử dụng tại các thành phố khác như Đà Nẵng, Nha Trang. (2) Theo quy định tại Điều 27 Luật Đầu tư 2014 và hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ, có 7 loại hợp đồng theo hình thức đối tác công tư, bao gồm: Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT), Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh (BOO), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ (BTL), Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao (BTL) và Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý (O&M). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Anh Tuấn - Tiến Lực - Xuân Anh. 2018. “30 năm thu hút FDI - Bài 1: TPHCM với vị thế dẫn đầu”, https://baotintuc.vn/hoi-nhap/30-nam-thu-hut-fdi-bai-1-tp-ho-chi-minh-voi- vi-the-dan-dau-20180908094321868.htm, truy cập ngày 8/9/2018. 2. Ban chấp hành Trung ương Đảng. 2002. Nghị quyết số 20-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 18/11/2002 về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển TPHCM Minh đến năm 2010”. NGÔ HOÀNG OANH – KHUNG PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ 20 3. Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi trường. 2016. Thông tư Liên tịch số 87/2016/ TTLT/BTC-BTNMT và Thông tư Liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT ngày 22/6/2016. Hà Nội. 4. Bộ Xây dựng. 2016. Văn bản số 805/BXD-QLN ngày 05/5/2016 của Bộ Xây dựng phúc đáp các văn bản số 1422/UBND-ĐTMT ngày 01/4/2016 và số 2678/UBND-ĐTMT ngày 06/04/2016 của Ủy ban Nhân dân TPHCM. 5. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2014. Nghị định 43/2014/NĐ- CP. Hà Nội. 6. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Nghị định 76/2015/NĐ- CP ngày 10/9/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản. Hà Nội. 7. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Nghị định 118/2015/NĐ-CP ban hành ngày 12/11/2015 hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. Hà Nội. 8. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 (có hiệu lực từ ngày 10/12/2015) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở. Hà Nội. 9. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2017. Nghị định 01/2017/NĐ- CP ngày 06/01/2017. Hà Nội. 10. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2017. Nghị định số 139/2017/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật. Hà Nội. 11. Cục Thống kê TPHCM và Tổng cục Thống kê Việt Nam, dữ liệu 2014 - 2018 https://www.gso.gov.vn/ và truy cập tháng 9/2019. 12. Hiệp hội Bất động sản TPHCM. 2019. Công văn số 22/CV-HoREA “V/v Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2013”, truy cập ngày 12/3/2019. 13. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2013. Luật Đất đai năm 2013. Hà Nội. 14. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2014. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014. Hà Nội. 15. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2014. Luật Nhà ở năm 2014. Hà Nội. 16. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Luật Đầu tư năm 2015. Hà Nội. 17. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Luật Doanh nghiệp. Hà Nội. 18. Sacombank. 2018. “Báo cáo thường niên”, truy cập ngày 12/3/2019. 19. Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM. “Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài 9 tháng năm 2019”, https://dautunuocngoai.gov.vn/tinbai/6231/Tinh-hinh-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai- 9-thang-nam-2019, truy cập ngày 14/10/2019. 20. Ủy ban Nhân dân TPHCM. 2013. Báo cáo số 196/BC-UBND ngày 8/11/2013. TPHCM.
File đính kèm:
- dau_tu_nuoc_ngoai_trong_linh_vuc_bat_dong_san_tai_thanh_pho.pdf