Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004

Là một tỉnh nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, Gia Lai là địa bàn có số lượng tín đồ

đạo Tin Lành tăng nhanh nhất ở khu vực này. Tính đến cuối năm 2004, số tín đồ đạo Tin Lành ở

Gia Lai đã lên đến 71.212 người. Bài viết đánh giá thực trạng phát triển của đạo Tin Lành ở Gia

Lai giai đoạn 1986 – 2004. Đây là giai đoạn đạo Tin Lành ở Gia Lai nói riêng, ở Tây Nguyên nói

chung có sự phát triển đột biến, dù từ năm 1980, về mặt tổ chức, đạo Tin Lành ở Tây Nguyên

đã bị ngừng hoạt động vì liên quan đến tổ chức FULRO(1). Đây chính là tác nhân quan trọng

dẫn đến sự ra đời của Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối

với đạo Tin Lành.

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 1

Trang 1

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 2

Trang 2

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 3

Trang 3

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 4

Trang 4

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 5

Trang 5

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 6

Trang 6

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 7

Trang 7

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 8

Trang 8

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 9

Trang 9

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 4420
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004

Đạo Tin Lành ở Gia Lai giai đoạn 1986-2004
h đã tăng thêm ở 238 
làng, thôn và 53 xã, phường.
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (69) - 2021 75
Năm 2000, đạo Tin Lành có mặt ở 104 xã, phường và 11/13 huyện, thành phố (Công an 
tỉnh Gia Lai, 2001) (năm 1996 thành lập huyện Ia Grai trên cơ sở tách ra từ huyện Chư Păh, năm 
2000 thành lập huyện Đăk Đoa trên cơ sở tách ra từ huyện Mang Yang nên tổng số huyện thị 
lúc này của tỉnh Gia Lai là 13), bao gồm: thành phố Pleiku và các huyện: Đăk Đoa, Chư Sê, Chư 
Prông, Ia Grai, Chư Păh, Đức Cơ, Mang Yang, Ayun Pa, Krông Pa, An Khê. Như vậy, so với năm 
1994 thì đạo Tin Lành đã mở rộng địa bàn ở 9 xã.
Đến cuối năm 2004, đạo Tin Lành có mặt ở 109 xã, phường, 355 thôn và 13/15 huyện, 
thị xã, thành phố của tỉnh Gia Lai (năm 2002 thành lập huyện Ia Pa trên cơ sở tách ra từ huyện 
Ayun Pa, năm 2003 thành lập huyện Đăk Pơ trên cơ sở tách ra từ huyện An Khê). Như vậy, phần 
lớn huyện, thị xã, thành phố ở Gia Lai đã có mặt của tín đồ Tin Lành. Tại huyện Mang Yang có 
đến 18/23 xã có tín đồ đạo Tin Lành, còn ở huyện Chư Sê chỉ còn lại 2 trong tổng số 13 xã và 
thị trấn là chưa có tín đồ Tin Lành mà thôi. Nếu so với năm 1986, đạo Tin Lành đã phát triển 
thêm ở 26 xã và hàng trăm thôn, làng. Hoạt động củng cố phát triển đạo Tin Lành ở Gia Lai 
trong thời gian này không chỉ thuần túy ở vùng đã có đạo mà còn phát triển nhanh vào vùng 
xa, vùng biên giới như ở các xã Kong triêng của huyện Mang Yang, xã IaO của huyện Chư Păh, 
Ia Blon, Ia Đon, Ia Nan của huyện Đức Cơ. 
Hai huyện Kông Chro và K’Bang thời điểm này chưa có đạo Tin Lành, sở dĩ như vậy bởi 
đây là hai huyện miền núi nằm phía đông bắc tỉnh Gia Lai, điều kiện đi lại hết sức khó khăn, 
đặc biệt đây là những vùng căn cứ cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ, nên đạo Tin Lành 
khó du nhập hơn những địa bàn khác.
Có thể thấy trong giai đoạn từ 1986-2004, địa bàn truyền đạo của đạo Tin Lành ở Gia 
Lai chủ yếu là mở rộng ở các làng, xã và một số huyện mới được tách ra nhưng tại đó chưa có 
đạo Tin Lành. Sở dĩ như vậy vì cho đến năm 1975, đạo Tin Lành đã có mặt ở khắp các huyện, 
thị trên địa bàn tỉnh Gia Lai và sau một thời gian trầm lắng, từ giữa những năm 80 của thế kỷ 
XX, đạo Tin Lành bắt đầu phục hồi và phát triển thì số chức sắc, tín đồ cũ hoạt động trở lại trên 
nền tảng cơ sở, địa bàn đã có từ trước.
3.3. Về hệ thống tổ chức, hệ phái
Đạo Tin Lành không lập ra tổ chức giáo hội mang tính chất tập hợp, thống nhất cho toàn 
đạo, mà theo hướng xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc lập với những hình thức khác nhau 
theo từng hệ phái, hoặc theo từng quốc gia. Trong cơ cấu tổ chức giáo hội, các hệ phái Tin 
Lành chủ động giao quyền tự trị cho các giáo hội quốc gia; giáo hội quốc gia lại giao quyền 
tự lập, tự trị, tự dưỡng cho các hội thánh cơ sở. Các cấp giáo hội bên trên hình thành phù hợp 
với điều kiện hoàn cảnh cho phép, thậm chí một số hệ phái còn cho tín đồ tự do tách khỏi hệ 
phái này tham gia hệ phái khác, hoặc đứng độc lập.
Tại Gia Lai, vào năm 1957, hệ phái Cơ đốc Phục lâm phát triển được một Hội thánh do 
Mục sư Phạm An Vui làm quản nhiệm, nhưng đến năm 1978 do điều kiện lịch sử phái này sáp 
nhập vào Hội thánh Tin Lành Việt Nam. Năm 1998, do những mâu thuẫn về quyền lợi, các hệ 
phái Liên hữu Cơ đốc, Ngũ tuần, Cơ đốc Phục lâm đã ra đời từ việc tách ra khỏi Hội thánh TLVN 
(MN). Như vậy, từ việc chỉ có 1 hệ phái là TLVN (MN) vào năm 1986 thì đến năm 1998 ở Gia Lai 
đã tăng lên 5 hệ phái Tin Lành và số lượng hệ phái này vẫn duy trì đến hết năm 2004 (Công an 
tỉnh Gia Lai, 1995, trang 4), gồm: 
76 Trần Thị Hằng
- Hệ phái Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) 
Hội thánh TLVN (MN) là Hội thánh gốc của Hội thánh Tin Lành Việt Nam do Hội Truyền 
giáo CMA truyền vào năm 1911. Đến năm 1975 có khoảng 180.000 tín đồ, 530 chi hội ở các 
tỉnh từ vĩ tuyến 17 trở vào. Sau năm 1975, Hội thánh TLVN (MN) hoạt động liên tục, bình 
thường đến năm 2001 thì được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân về mặt tổ chức. Tin 
Lành trở thành một tôn giáo lớn tại Việt Nam, nhất là vùng Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói 
riêng. Nhiều nơi, các chi hội Tin Lành được phục hồi, tái thành lập và thành lập mới. 
Tại Gia Lai, đến năm 1986, số người theo hệ phái TLVN (MN) khoảng hơn 12.000 người. 
Từ đó, hệ phái TLVN (MN) bắt đầu phát triển lên tới 30.000 người vào 1990 và 91.800 người vào 
năm 2000, có 2 mục sư tự phong, 8 truyền đạo, 8 truyền đạo tập sự, 102 truyền đạo tự nguyện, 
197 nhà nguyện (Hội thánh TLVN (MN) tỉnh Gia Lai, 2016). Khi FULRO lập ra “Tin Lành Đê Ga”, 
lực lượng này đã lôi kéo được hơn 20.000 rời bỏ Tin Lành Việt Nam, nên tới thời điểm đầu năm 
2001 (khi hệ phái TLVN (MN) được công nhận tư cách pháp nhân), hệ phái TLVN (MN) ở Gia Lai 
chỉ còn khoảng hơn 69.000 người (Hội thánh TLVN (MN) tỉnh Gia Lai, 2016). Sau khi được Nhà 
nước công nhận tư cách pháp nhân vào năm 2001, từng bước một các điểm nhóm được chính 
quyền tỉnh Gia Lai tạo điều kiện để đăng ký, các chi hội được công nhận. Tháng 07-2003, 05 chi 
hội Tin Lành được chính quyền tỉnh Gia Lai cho phép tổ chức Hội đồng lần thứ nhất. Sau hội 
nghị của Ban Tôn giáo chính phủ về việc tiếp tục triển khai công tác đối với đạo Tin Lành ở các 
tỉnh Tây Nguyên và Bình Phước. Tháng 8.2004, tại Gia Lai Ban Dân tộc và Tôn giáo tỉnh phối 
hợp với các ngành chức năng ở tỉnh hướng dẫn cho các huyện, thành phố tiến hành triển khai 
cho phép Hội đồng các chi hội đủ điều kiện và hướng dẫn Ban Đại diện Tin Lành làm các thủ 
tục xin phép Hội đồng. Đầu tháng 12-2003, 03 chi hội Tin Lành thuộc hệ phái TLVN (MN) ở 03 
huyện Ayun Pa, Ia Grai, Chư Sê tiến hành tổ chức Hội đồng. Từ 13 đến 18-12-2003, các chi hội 
Plei Breng (Ia Grai), Plei Betel (Chư Sê) và Plei A Thái (Ayun Pa) tổ chức Hội đồng lần thứ nhất 
thành công (Hội thánh TLVN (MN) tỉnh Gia Lai, 2016). Tính đến cuối năm 2003, trên địa bàn 
tỉnh Gia Lai đã có 10 chi hội thuộc hệ phái TLVN (MN) đã tổ chức Hội đồng lần thứ nhất và đi 
vào hoạt động ổn định (Đoàn Triệu Long, 2004, trang 60). Bên cạnh đó, tỉnh Gia Lai cũng tạo 
điều kiện cho 02 thí sinh của hệ phái TLVN (MN) nộp hồ sơ vào Học viện Thánh kinh thần học 
khóa I (2003-2006) và 5 người học khóa II (2004-2007), tạo điều kiện cho 11 đại biểu đi dự Đại 
hội đồng Giáo phẩm năm 2003 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo thống kê của hệ phái TLVN (MN), năm 2004 tại Gia Lai có 70.000 người theo hệ phái 
TLVN (MN) (trong đó dân tộc Gia-rai khoảng 50.000 tín đồ, dân tộc Ba-na có khoảng 18.000 tín 
đồ) (Hội thánh TLVN (MN) tỉnh Gia Lai, 2016). Ngoài ra còn có khoảng 650 người theo Tin Lành ở 
các tỉnh tiếp giáp (Huyện Sa Thầy - Kon Tum; Eahleo - Đắk Lắk và Sông Hinh - Phú Yên) đang sinh 
hoạt và chịu sự chỉ đạo của các chức sắc tại tỉnh Gia Lai. Số đã đựơc làm lễ Báp têm là 32.645 tín 
đồ, có một Ban Đại diện Tin Lành tỉnh gồm 3 thành viên, 10 Mục sư (Kinh: 03; Dân tộc thiểu số: 07), 
05 Mục sư nhiệm chức (Dân tộc thiểu số: 04; Kinh: 01); có 135 truyền đạo tập sự (Hội thánh TLVN 
(MN) tỉnh Gia Lai, 2016).
- Hệ phái Truyền giáo Cơ đốc
Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam chính thức ra đời ngày 01.9.1956, do một số mục sư, 
truyền đạo vốn là thành viên sáng lập nên Hội thánh Tin Lành Việt Nam (nay là Hội thánh Tin 
Lành Việt Nam - Miền Nam) trước đây, trong đó có một mục sư nước ngoài - mục sư Gordor 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (69) - 2021 77
Smith nguyên là giáo sĩ của Hội Liên hiệp Phúc âm Truyền giáo (CMA). Phạm vi hoạt động chủ 
yếu ở các tỉnh duyên hải miền Trung và ở một số tỉnh Tây Nguyên như Gia Lai, Đắk Lắk, Kon Tum.
Tại Gia Lai, trong quá trình hoạt động, do mâu thuẫn giữa các mục sư, truyền đạo với 
nhau nên năm 1995 truyền đạo Ksor Đek đã tách khỏi Hội thánh Tin Lành miền Nam chuyển 
sang theo hệ phái Cơ đốc truyền giáo. Đến năm 2000, hệ phái Truyền giáo Cơ đốc có khoảng 
1.200 tín đồ (Công an tỉnh Gia Lai, 2000).
- Hệ phái Tin Lành Cơ đốc Phục lâm 
Tại An Khê, năm 1957, phái Cơ đốc Phục lâm phát triển được một Hội thánh do Mục sư 
Phạm An Vui cai quản, cho đến năm 1978 do điều kiện lịch sử phái này sát nhập vào Hội thánh 
Tin Lành Việt Nam. Năm 1998, hệ phái Cơ đốc Phục lâm lại xuất hiện ở Gia Lai sau khi tách ra từ 
Hội thánh TLVN (MN) do những mâu thuẫn về quyền lợi. Đến năm 2000, số tín đồ của hệ phái Cơ 
đốc Phục lâm là 200 tín đồ, trong đó toàn bộ tín đồ là người dân tộc thiểu số (Công an tỉnh Gia 
Lai, 2000, trang 1).
- Hệ phái Liên hữu Cơ đốc
Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam có nguồn gốc từ Hội thánh TLVN (MN) do mục sư 
Hoàng Kim Thanh lập ra được Chính quyền Sài Gòn công nhận năm 1974. Sau năm 1975, Hội 
thánh Liên hữu Cơ đốc hoạt động mờ nhạt, cho đến những năm 1980 mới khôi phục hoạt 
động, đặc biệt mạnh lên sau khi sáp nhập với nhóm của mục sư Đinh Thiên Tứ, cũng là chức 
sắc của Hội thánh TLVN (MN) đi theo xu hướng Ngũ tuần.  
Tại Gia Lai, hệ phái Liên hữu Cơ đốc được tách ra từ hệ phái TLVN (MN) vào năm 1998 do 
những mâu thuẫn về quyền lợi, đến năm 2000 số tín đồ của hệ phái Liên hữu Cơ đốc là 1.000 
tín đồ (Công an tỉnh Gia Lai, 2000).
- Hệ phái Ngũ tuần
 Tại Gia Lai, năm 1998, hệ phái Ngũ tuần đã ra đời từ việc tách ra khỏi hệ phái TLVN (MN). 
Đến năm 2000, hệ phái Ngũ tuần ở Gia Lai có 150 tín đồ (Công an tỉnh Gia Lai, 2000). Tuy nhiên, 
đến năm 2003, hệ phái Ngũ tuần ở Gia Lai tự giải tán, một số tín đồ sau đó chuyển sang sinh 
hoạt tại hệ phái Menonite và một số sinh hoạt tại hệ phái Tin Lành Giám lý.
3. Kết luận
Nghiên cứu về đạo Tin Lành ở Gia Lai từ năm 1986 đến năm 2004 có thể rút ra một số 
nhận xét sau:
Một là, số lượng tín đồ tăng nhanh, chủ yếu là ở bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. 
Trong giai đoạn này, số tín đồ đạo Tin Lành ở Gia Lai đã tăng thêm 49.708 người, tức 
tăng thêm 39%, trong đó tập trung chủ yếu ở bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số. 
Trong tổng số 71.212 tín đồ, có đến 69.829 người là đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm 
đến 98,05%, nhiều nhất là 2 dân tộc Gia Rai và Ba Na (hai dân tộc cư trú lâu đời và có dân 
số đông tại Gia Lai). Trong số 5 hệ phái, chỉ có hệ phái TLVN (MN) có tín đồ là người Kinh 
với tổng số 1.383 người (chiếm khoảng 1,95%) (Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) 
tỉnh Gia Lai, 2016, trang 4).
Hai là, tín đồ phân bố không đều ở các huyện. Mặc dù tính đến thời điểm cuối năm 
2004, đạo Tin Lành đã có mặt ở 13/15 huyện, thị của tỉnh Gia Lai, tuy nhiên giữa các địa 
78 Trần Thị Hằng
phương có sự phân bố không đều. Tín đồ đông nhất tại các huyện Đăk Đoa, Chư Sê, Ayun 
Pa, Pleiku, Krông Pa, có nơi số tín đồ lên đến hơn 20.000 người như huyện Đăk Đoa (số tín đồ 
của hệ phái TLVN (MN) ở huyện Đăk Đoa là 24.935 người năm 2000) nhưng cũng có những địa 
bàn chỉ có mấy chục tín đồ, như huyện An Khê chỉ có 69 tín đồ vào năm 2000 (Công an tỉnh 
Gia Lai, 2000).
Ba là, có sự phát triển không đều giữa các hệ phái. Trong 5 hệ phái tại Gia Lai năm 
2004, hệ phái Tin Lành Việt Nam (miền Nam) chiếm đến 92,09% tổng số tín đồ của tôn 
giáo này (70.000 tín đồ/71.212 tín đồ). Các hệ phái còn lại chỉ có 1.212 tín đồ, chiếm 
khoảng gần 8% ((Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) tỉnh Gia Lai, 2016, Số liệu 
thống kê tín đồ Hội thánh). Bên cạnh đó, niềm tin của nhiều tín đồ đạo Tin Lành ở Gia Lai 
không ổn định, còn mờ nhạt và mức độ tín ngưỡng của các tín đồ cũng rất khác nhau; 
chỉ có gần 30% trong số này là những tín đồ đã làm lễ Báp tem (được công nhận là tín đồ 
chính thức theo đúng giáo luật), 70 còn lại là tín đồ không chính thức. Trong số này, có 
người tin theo Chúa, nhưng cũng có nhiều người theo Tin Lành vì những mục đích khác.
Lí giải cho sự phát triển nhanh chóng trên đây của đạo Tin Lành ở Gia Lai, có thể kể đến 
một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho 
đạo Tin Lành được hoạt động hợp pháp nên các hệ phái Tin Lành đẩy mạnh hoạt động truyền 
đạo, phát triển tín đồ; Thứ hai, một bộ phận tín đồ trước đây theo “Tin Lành Đê Ga” sau đó từ 
bỏ và quay trở lại sinh hoạt tại các hệ phái mà nhiều nhất là hệ phái Tin Lành Việt Nam (miền 
Nam); Thứ ba, lực lượng truyền đạo trong thời kì này tận dụng những tác động từ tình hình 
thế giới đó là xu hướng mở cửa, hội nhập sâu rộng của các quốc gia và chính sách mở cửa của 
Đảng và Nhà nước ta là muốn hòa nhập, giao lưu và là bạn với tất cả các nước, với tinh thần 
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tận dụng chính sách này, đạo Tin Lành 
cũng đẩy mạnh hoạt động truyền giáo thông qua hoạt động từ thiện, nhân đạo, du lịch, thăm 
thân nhân,... 
Chú thích:
(1) Tên viết tắt của tổ chức “Front Unifié pour la Libération des Races Opprimées” tức 
“Mặt trận thống nhất giải phóng các chủng tộc bị áp bức”, một tổ chức vũ trang phản động do 
nước ngoài nuôi dưỡng và chỉ đạo.
(2) Được dịch ra từ cụm từ tiếng Anh: The Christian and Missionary Alliance, viết tắt là CMA.
(3) Sau hiệp định Geneve năm 1954, Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền, lúc này hệ phái 
Tin lành Việt Nam cũng phân hóa thành 2 nhánh đó là hệ phái Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) 
và hệ phái Tin Lành Việt Nam (miền Nam). 
(4) Quan điểm của các mục sư đạo Tin Lành ở Gia Lai mà tác giả đã tiếp xúc: Mục sư Võ 
Minh Hùng, Mục sư Uyên (ủy viên Ban đại diện Tin Lành – Quản nhiệm chi hội Kông Breck, 
Adek, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai), Mục sư Úy (Quản nhiệm chi hội HNam Bok Kei Dei Plei Brel 
Dor), Mục sư Puih Blik (Ủy viên Ban đại diện Tin Lành – Quản nhiệm Chi hội Tin Lành Plei Mơ 
Nú tại xã Chư Á, thành phố Pleiku) vào tháng 6.2017.
(5) Năm 1982, địa giới tỉnh Gia Lai ngày nay gồm có 8 huyện, thị xã: thị xã Pleiku, huyện 
Chư Păh, Chư Prông, Chư Sê, Mang Yang, An Khê, Ayun Pa, Krông Pa.
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 01 (69) - 2021 79
Tài liệu tham khảo
Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX. (2004). Thông báo số 160-TB/TW Về chủ trương công 
tác đối với đạo Tin Lành, ngày 15-01-2004. Hà Nội.
Ban Dân vận Trung ương. (2005). Báo cáo tình hình đạo Tin Lành ở Tây Nguyên và Bình 
Phước. Hà Nội.
Bộ Chính trị. (1990). Nghị quyết số 24/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa VI về Tăng cường 
công tác tôn giáo trong tình hình mới, số 24/NQ-TW ngày 16-10-1990. Hà Nội.
Bộ Chính trị. (1998). Thông báo số 184-TB/TW ngày 30-11-1998 Về chủ trương công tác 
đối với đạo Tin Lành trong tình hình mới. Hà Nội.
Công an tỉnh Gia Lai. (1995). Báo cáo tình hình đạo Tin Lành ở Gia Lai và đề xuất giải pháp. 
Gia Lai.
Công an tỉnh Gia Lai. (2000). Số liệu tổng hợp chi hội, tín đồ Tin Lành tỉnh Gia Lai. Gia Lai.
Công an tỉnh Gia Lai. (2001). Tình hình hoạt động của các tôn giáo ở Gia Lai trong năm 
2000. Gia Lai.
Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) tỉnh Gia Lai. (2016). Số liệu thống kê tín đồ Hội 
thánh qua các năm. Gia Lai.
Đoàn Triệu Long. (2004). Hoạt động truyền đạo Tin Lành trái phép ở Gia Lai hiện nay – Thực 
trạng và giải pháp. Luận văn Thạc sĩ khoa học Tôn giáo. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí 
Minh. Hà Nội.
Ngô Văn Minh. (2016). Hoạt động của đạo Tin Lành ở Gia Lai sau 10 năm triển khai thực 
hiện chủ trương đăng ký điểm nhóm. Tạp chí Khoa học chính trị, số 7-2016, 59. 

File đính kèm:

  • pdfdao_tin_lanh_o_gia_lai_giai_doan_1986_2004.pdf