Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo

Dựa trên các học thuyết triết học căn bản như: Thuyết duyên khởi, Thuyết vạn vật bình

đẳng, Thuyết nhân quả báo ứng, v.v. mà Phật giáo đã xây dựng nên các nguyên tắc và chuẩn

mực đạo đức sinh thái căn bản như thực hiện lối sống thân thiện với môi trường, khơi dậy Phật

tính, tránh xa sân hận, tạo dựng nghiệp thiện, tránh xa nghiệp ác và nhận thức cuộc đời là vô

ngã, vô thường, v.v. Điều này đã có một ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với bản thân Phật giáo

mà còn đối với sự nghiệp giáo dục đạo đức sinh thái của nhân loại trong bối cảnh hiện nay.

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo trang 1

Trang 1

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo trang 2

Trang 2

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo trang 3

Trang 3

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo trang 4

Trang 4

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo trang 5

Trang 5

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo trang 6

Trang 6

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo trang 7

Trang 7

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 3040
Bạn đang xem tài liệu "Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo

Đạo đức sinh thái trong triết học Phật giáo
thuvienhoasen.org/a11554/20-
gioi-khong-sat-sinh 
4
 Dẫn theo: 
loi-ich-cua-viec-giu-gin-ngu-gioi-trong-dao-phat 
thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, 
sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong 
tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và 
nhân tạo trong một giai đoạn nhất định từ 
tính bằng thập kỷ hay hàng triệu năm. 
Trong những năm gần đây, sự thay đổi khí 
hậu đã và đang diễn ra hết sức gay gắt với 
hiện tượng nóng lên toàn cầu. Chưa bao giờ 
loài người lại đứng trước rất nhiều khó 
khăn, thử thách đặc biệt là những khó khăn 
và thử thách từ sự thay đổi dẫn đến khủng 
hoảng môi trường và những tác động tiêu 
cực của nó đến cuộc sống của chính con 
người như hiện nay. Tất cả đang đe dọa 
nghiêm trọng tới sức khỏe và sự an toàn 
của cả nhân loại. Con người thường tự hào 
về khả năng chinh phục tự nhiên của mình 
nhưng với sự biến đổi khí hậu cực đoan 
như hiện nay thì đây rõ ràng là một sự tự 
hào thái quá như Ph.Ăngghen từng nói: 
“Chúng ta không nên quá tự hào về những 
thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi 
vì mỗi lần chúng ta đạt được thắng lợi là 
mỗi lần tự nhiên trả thù lại chúng ta” [1, 
tr.654]. 
Con người đã tạo ra sự thay đổi bất 
thường này nên khi giải quyết nó cũng phải 
xuất phát từ chính con người. Con người 
cần phải nhận thức lại và phải tìm ra được 
các giải pháp tốt nhất để giải quyết mối 
quan hệ giữa con người và tự nhiên trong 
bối cảnh hiện nay. Theo quan niệm Phật 
giáo, con người không phải là chủ thể trung 
tâm của thế giới nên con người không thể 
có được đặc quyền muốn cải tạo và biến 
đổi môi trường theo ý mình. Mối quan hệ 
giữa con người và thiên nhiên phải là mối 
quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Cần phải biết 
quý trọng, bảo vệ, giữ gìn, vun đắp cho môi 
trường sống thì con người mới có thể tồn 
tại lâu dài được. Đây không chỉ là triết lý 
mà còn là những bài học về đạo đức môi 
trường của Phật giáo dù đã ra đời cách đây 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 5 
trên 2500 năm nhưng cho đến nay vẫn còn 
nguyên giá trị. 
Hai là, khơi dậy Phật tính, tránh xa 
sân hận. Khái niệm “Phật tính” ở đây cần 
được hiểu là tính thiện lương hay lòng trắc 
ẩn, thái độ khoan dung vốn có của con 
người. Theo Phật giáo, vạn vật sinh ra và 
tồn tại trong thế giới vốn nằm trong mối 
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Nhìn bề ngoài, 
mỗi người mỗi kiếp tuy có khác nhau 
nhưng về cơ bản giữa chúng đều có những 
đặc điểm chung ẩn chứa bên trong là tính 
thiện lương hay còn gọi là Phật tính. Chính 
yếu tố Phật tính, cái tàng chất ở bên trong 
mỗi một con người, mỗi một sự vật đã làm 
cho vạn vật tuy khác nhau nhưng lại gần 
gũi và bình đẳng với nhau. Do đó, Phật tính 
chính là sợi dây gắn kết cuộc sống giữa con 
người với con người, giữa con người với 
vạn vật. Phật tính chính là mục tiêu để con 
người hướng đến một lối sống nhân ái và từ 
bi như Đức Phật vẫn thường dạy: “Chúng 
ta mỗi loài tuy thân hình khác nhau, mà vẫn 
đồng một Phật tính. Phật tính đã bình đẳng 
thì không thể viện lý do gì để nói rằng Phật 
tính ở người giá trị hơn ở vật, ở giai cấp 
này màu da này giá trị hơn giai cấp kia màu 
da kia”5. Tuy nhiên, cũng theo Phật giáo, 
Phật tính vốn là tiềm năng sẵn có trong mỗi 
người nhưng để khơi dạy được tiềm năng 
đó cũng không hề dễ dàng. Lý do là dù mỗi 
người đều mang tiềm năng Phật tính nhưng 
trong cuộc sống trần tục con người đôi khi 
còn chịu sự ràng buộc bởi những sân hận 
(sự tác động qua lại giữa danh và sắc nên 
dẫn tới tham, sân, si). Chính yếu tố sân 
hận này khi phát triển đến mức thái quá có 
thể trở thành vật cản, che lấp tính thiện 
5
 Chương trình phát thanh Phật giáo, Bài 20: Giới 
không sát sinh. Thư viện Hoa sen ( 
www.thuvienhoasen.org 
a11554/20-gioi-khong-sat-sinh) 
lương, lòng trắc ẩn của mỗi người đã làm 
cho cái xấu, cái ác cũng từ đó mà ra. Cũng 
từ quan niệm đó, Phật giáo cho rằng để 
khơi dậy được Phật tính, đồng thời tránh xa 
được sân hận thì mỗi người không có cách 
nào khác là phải lấy sự khoan dung cùng 
với tình yêu thương vô điều kiện giữa bản 
thân với muôn loài làm cứu cánh như Đức 
Phật thường nói với đệ tử của mình: 
“Không có lý do gì để thân thiện với người 
này và thù địch với kẻ khác. Tất cả mọi 
người đều bình đẳng như nhau, vì ai cũng 
đều muốn hưởng hạnh phúc an lạc và 
không ai thích bệnh tật khổ đau. Do đó, 
chúng ta phải đối xử với mọi người bằng 
tình thương không phân biệt” [3, tr.167]. 
Với Phật giáo, vạn vật trong thế giới 
(không chỉ riêng ở con người) đều có quyền 
tồn tại ngang nhau, không phân biệt cao 
thấp, sang hèn. Tuy nhiên, do khác nhau về 
đặc tính, hình dạng cũng như cấu trúc nội 
dung và phương thức vận động nên không 
tránh khỏi có sự mâu thuẫn về lợi ích. Đỉnh 
điểm của sự mâu thuẫn có thể tạo ra xung 
đột giữa các bên. Do đó, cách giải quyết 
mâu thuẫn, giải quyết xung đột tốt nhất là 
khơi dậy Phật tính, tránh xa sân hận, lấy 
việc hòa giải, nhường nhịn lẫn nhau thay vì 
sự cố chấp, tranh đoạt và coi đó như là một 
trong những chuẩn mực đạo đức căn bản 
của chúng sinh trên con đường tìm kiếm sự 
“giải thoát” cho bản thân và cộng đồng. Do 
đó, việc mở lòng từ bi, yêu thương muôn 
loài không kể thân sơ, cao thấp, không kể 
sang trọng hay thấp hèn phải trở thành một 
trong những chuẩn mực căn bản trong đạo 
đức sinh thái mà mỗi chúng sinh cần tự 
giác thực hiện như lời răn dạy của Đức Phật 
trong kinhTừ Bi: “...Hãy đem an vui đến 
cho muôn loài; Cầu chúng sinh thảy đều an 
lạc; Không bỏ sót một hữu tình nào; kẻ ốm 
yếu hoặc người khỏe mạnh; Giống lớn to 
hoặc loại dài cao; Thân trung bình hoặc 
6 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
ngắn, nhỏ, thô; Có hình tướng hay không 
hình tướng; Ở gần ta hoặc ở nơi xa; Đã 
sanh rồi hoặc sắp sanh ra; Cầu cho tất cả 
đều an lạc...”.6 Khơi dậy Phật tính, tránh xa 
sân hận trong mỗi người do đó đã trở thành 
một trong những nguyên tắc đạo đức quan 
trọng của Phật giáo trong việc nhận thức và 
ứng xử mối quan hệ giữa người với người, 
giữa con người với thế giới tự nhiên. 
Ba là, tạo dựng nghiệp thiện, tránh 
xa nghiệp ác. Với Phật giáo số phận cuộc 
đời của mỗi con người hay bản thân mỗi 
một sinh vật không phải là một hằng số 
luôn được an bài định sẵn mà trái lại do 
chính con người hay sự vật đó tạo ra theo 
quy luật Nhân quả - Báo ứng. Cố nhiên, từ 
nguyên nhân dẫn tới kết quả là cả một quá 
trình phức tạp, nhiều chiều không nhất định 
cứ diễn ra theo đường thẳng mà trái lại có 
khi quanh co, khúc khuỷu do có sự tác 
động của nhiều nhân tố khác nhau. Ở 
những con người và sự vật khác nhau đều 
có chuỗi các nguyên nhân dẫn đến kết quả 
khác nhau. Nhưng cho dù khác nhau đến 
mấy thì Phật giáo vẫn tin rằng: nếu có 
nguyên nhân nhất định sẽ dẫn đến kết quả; 
nguyên nhân nào sẽ cho ra kết quả ấy. Quy 
luật Nhân quả do đó theo Phật giáo sẽ thể 
hiện thành quy luật thiện ác theo nguyên 
tắc: “Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai!”. 
Khi Nhân quả được hình thành sẽ tạo ra 
một kết quả chung gắn với cuộc đời của 
mỗi người hay sự vật gọi là “Nghiệp”. 
Nghiệp là kết quả của một xâu chuỗi của sự 
tác động nhân- quả nhưng nghiệp cũng tạo 
ra quả báo trong tương lai. Quả báo khi 
đủ nhân duyên sẽ làm chúng sinh tái sinh 
vào một cuộc đời, một hoàn cảnh nhất định, 
một điều kiện sống cụ thể, nhưng hành 
6
 Theo Nguyễn Thị Trang: “Phật giáo với bảo vệ 
môi trường” (
giao-voi-bao-ve-moi-truong/610.html). 
động của chúng sinh trong cuộc đời đó vẫn 
có sự tự do và dựa theo nhận thức của 
chúng sinh đó. Hành động do chúng sinh 
lựa chọn thực hiện sẽ tạo ra nghiệp mới và 
quả báo mới như Đức Phật thường nói: “Ác 
nghiệp chính do mình tạo, tự mình sinh ra. 
Ác nghiệp làm hại kẻ ngu dễ dàng như kim 
cương phá hoại bảo thạch... Làm dữ bởi ta, 
mà nhiễm ô cũng bởi ta; làm lành bởi ta, 
mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay không 
tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể làm cho 
ai thanh tịnh được”[6]. Nghiệp theo Phật 
giáo có hai loại: gồm nghiệp tốt (hay 
nghiệp thiện) và nghiệp xấu (hay nghiệp ác 
hay nghiệp khổ).Một nghiệp tốt có thể 
mang lại kết quả tốt trong một sự tái sinh, 
là cơ hội để thoát khỏi vòng luân hồi. Trái 
lại nếu gặp phải nghiệp xấu (theo Phật giáo: 
dù nghiệp tốt hay nghiệp xấu cũng đều do 
con người tự tạo ra) có thể mang lại kết quả 
xấu trong một sự tái sinh, cuộc đời còn bế 
tắc trong kiếp luân hồi như lời dạy của Đức 
Phật: “Người thường sanh tâm sát hại, càng 
tăng trưởng nghiệp khổ, mãi xoay vần trong 
sanh tử, không có ngày ra khỏi”(Kinh Lăng 
già)7. 
Từ những sự phân tích trên đây cho 
thấy tư tưởng “Tạo nghiệp tốt, tránh xa 
nghiệp ác” do đó trở thành một trong những 
nguyên tắc đạo đức sinh thái phổ biến của 
Phật giáo để thực hành một lối sống thân 
thiện của chúng sinh trên con đường diệt 
khổ. Có nhiều cách để “tạo nghiệp tốt, 
tránh xa nghiệp ác” nhưng theo Phật giáo 
cách tốt nhất là thực hiện “Thập thiện” và 
“Ngũ giới”. Thập thiện là 10 việc thiện 
được thực hiện qua hành động (thân), lời 
nói (khẩu) và suy nghĩ (ý). Trong đó có 3 
7
 Dẫn theo: 
thike/tk-
02/Phathocphothong/unicode/phathocphothong-
Ie.htm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 7 
quy định cho hành động (thân) gồm: Không 
sát sinh, không đạo chích và không tà dâm; 
4 quy định cho lời nói (khẩu) gồm: Không 
nói dối, không nói nước đôi (nói hai chiều), 
không nói lời độc địa và không nói lời phù 
phiếm; 3 quy định dành cho suy nghĩ (ý) 
gồm: không có ý nghĩ ham muốn (không 
tham dục), không giận dỗi, buồn bực và 
không si mê, lầm lạc. Ngũ giới là 5 điều răn 
không được làm của hàng tu sĩ tại gia 
mà Phật tử xin phát nguyện thụ lĩnh 5 giới 
này (Giới: là hàng rào ngăn cấm những việc 
xấu của thân, khẩu, ý). Ngũ giới gồm: 
Không sát sinh, không trộm cắp, không tà 
dâm, không uống rượu, không vọng ngôn 
(không nói càn, bừa bãi). 
Cũng theo Phật giáo, các quy định về 
ngũ giới, thập thiện trên thực tế chỉ là 
những những chuẩn mực đạo đức bước đầu 
cho chúng sinh thực hiện trong đời sống 
thường ngày để tạo nghiệp tốt, tránh xa 
nghiệp ác và cũng là bước khởi đầu trên 
con đường đi đến giải thoát nhưng muốn 
giải thoát thực sự thì mỗi chúng sinh cần 
phấn đấu gạt bỏ vô minh hướng tới nhận 
thức và thực hành trọn vẹn “tứ diệu đế” đó 
là điều kiện cần và đủ để ai cũng có thể đạt 
tới sự cảnh giới của Niết bàn. 
Bốn là, nhận thức cuộc đời là vô ngã, 
vô thường. Trong kinh Upanisad của đạo 
Bà la môn thường bàn đến sự tồn tại và 
luận giải về mối quan hệ giữa Đấng tối cao 
(Brahman) với con người, vạn vật cụ thể 
(Atman) trong đó xác quyết: vạn vật trên 
cõi đời này (Atman) đều được sinh ra bởi 
Đấng tối cao (Brahman). Trong khi đó, khi 
luận giải về nguồn gốc của thế giới, Phật 
giáo đã phủ nhận mối quan hệ duy tâm này 
của giáo phái Bà la môn. Đối với Phật giáo, 
thế giới vốn tồn tại tự nó chẳng do ai sinh 
ra (vô tạo giả), con người chẳng qua chỉ là 
sự kết hợp giữa các duyên “danh” và “sắc” 
(tức “ngũ uẩn” hay “lục đại”) tạo ra. Nếu so 
với sự trường tồn của thế giới thì cuộc đời 
của mỗi người là quá ngắn ngủi đến mức 
hầu như chỉ tồn tại thoáng qua (vô ngã). Vô 
ngã trên thực tế là một phần của quy luật vô 
thường. Quy luật của vô thường là sinh – 
trụ - dị - diệt hay Thành – trụ - hoại – 
không. Cuộc đời của con người cũng giống 
như vạn vật không thoát khỏi quy luật vô 
thường đó. Độ dài ngắn của cuộc đời con 
người trên thực tế chỉ mang tính ước lệ. 
Nếu loại bỏ được sự ham muốn (tham, sân, 
si) thì chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy đời 
người là “vô ngã, vô thường” (tạm thời và 
luôn thay đổi, “chư hành vô thường, chư 
thức vô ngã”). Từ đó, Phật giáo tin rằng: 
một khi chúng ta nhận thức được cuộc đời 
là vô ngã, vô thường thì nó cũng giúp 
chúng ta thay đổi về mục đích, lối sống và 
các chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống. 
Thay vì việc đeo đuổi một mục đích và lối 
sống tranh đoạt, ích kỷ cho cá nhân, cho 
bản thân mỗi người chúng ta sẽ tự nguyện 
lựa chọn một cuộc sống xả thân, dâng hiến 
cho cộng đồng, cho đồng loại. Trong lối 
sống này mọi nguyên tắc và chuẩn mực đạo 
đức ích kỷ truyền thống sẽ bị lên án và thay 
vào đó bằng các nguyên tắc và chuẩn mực 
đạo đức mới – đạo đức của lối sống cộng 
đồng bền vững hay đạo đức sinh thái. 
4. Kết luận 
Là một trong những tôn giáo lớn vào 
bậc nhất trên thế giới nên những di sản tư 
tưởng mà Phật giáo để lại cho nhân loại có 
ý nghĩa vô cùng lớn lao trong đó có tư 
tưởng về đạo đức học sinh thái. Đạo đức 
học sinh thái của Phật giáo ra đời dựa trên 
các học thuyết triết học căn bản của Phật 
giáo như: Thuyết duyên khởi, Thuyết vạn 
vật bình đẳng, Thuyết nhân nhân quả báo 
ứng, v.v.. với các nguyên tắc căn bản như: 
thực hiện lối sống thân thiện với môi 
trường và đề cao chuẩn mực đạo đức hiếu 
sinh, không sát sinh; Khơi dậy Phật tính, 
8 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
tránh xa sân hận; Tạo dựng nghiệp thiện, 
tránh xa nghiệp ác; và nhận thức cuộc đời 
là vô ngã, vô thường, v.v.. Nghiên cứu đạo 
đức sinh thái trong triết học Phật giáo hiện 
nay có ý nghĩa to lớn không chỉ góp phần 
làm sáng tỏ thêm một số nội dung tư tưởng 
vốn có trong triết học Phật giáo lâu nay ít 
được các nhà nghiên cứu quan tâm mà từ 
kết quả nghiên cứu này giúp chúng ta nhìn 
nhận đánh giá tích cực hơn về vai trò của 
tôn giáo nói chung trong đó có Phật giáo 
trong sự nghiệp giáo dục ý thức đạo đức 
sinh thái, ý thức bảo vệ môi trường – một 
vấn đề cấp bách của nhân loại trong đó có 
Việt Nam nói hiện nay8 
_______________________________ 
8 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc 
gia Hà Nội trong đề tài mã số QG.17.54 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 42. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[2] Kinh Trung A Hàm, Kinh Phạm Chí A Nhiếp Hòa, Hòa Thượng Thích Minh Châu 
dịch. VNCPHVN ấn hành, 1992. 
[3] Joanthan Landaw (2006), Lược truyện đức Phật Thích Ca (Thích Chân Tính dịch). 
Nxb Tôn giáo. 
[4] Phương Lập Thiên (2005),“Triết học sinh thái Phật giáo và ý thức sinh thái hiện 
đại”, Tạp chí Huyền Trang Phật học nghiên cứu (Đài Loan), kỳ 2 
[5] Thanh Vân - Nguyên Duy Nhường (1993), Từ điển danh ngôn Đông Tây. Nxb Văn 
Hóa, Hà Nội. 
[6] https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghi%E1%BB%87p_(Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o) 
Abstract 
Ecological morality in Buddhism philosophy 
Based on all the basic philosophies such as interdependent, equitable theory of 
everything, the retributive theory of cause and effect, Buddhism has constructed all the 
principles and standards for the basic ecological morality such as implementing 
environmentally friendly lyfestyles, arousing Buddhist personalities, avoiding revenges and 
angers, building up good karma, avoiding bad karma and perveiving the life as non-ego, 
and impermanence. This has great significance, not only in the Buddhism itself, but also 
in the cause of ecological moral education for mankind within the contemporary contexts. 
Keywords: philosophy, dependent origination, cause and effect, Buddhism, 
ecological, morality 

File đính kèm:

  • pdfdao_duc_sinh_thai_trong_triet_hoc_phat_giao.pdf