Đạo đức học phương Tây đương đại: Tổng quan các trào lưu và các vấn đề chủ yếu
Thuật ngữ “đạo đức học” có nguồn
gốc từ thuật ngữ “ethos” trong tiếng
Hy Lạp cổ và được Aristotle (384-322
tr.CN) sử dụng với tính cách là môn học
về phẩm hạnh, một trong những lĩnh
vực đặc thù của triết học, môn triết học
thực tiễn. Sau này, đạo đức học được
xem là môn học về đạo đức và luân lý.
Trong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử
nhân loại, các học thuyết đạo đức học có
ảnh hưởng không nhỏ đến nền tảng đời
sống tinh thần xã hội cũng như lối sống
đạo đức của các cá nhân và cộng đồng
người khác nhau trong xã hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Đạo đức học phương Tây đương đại: Tổng quan các trào lưu và các vấn đề chủ yếu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đạo đức học phương Tây đương đại: Tổng quan các trào lưu và các vấn đề chủ yếu
ng−ời khác. Khi đó, Tha nhân trở thành chính mình đối với Chúng ta và Tha nhân có thể khám phá ra cái Bản thân mình ở trong tôi, thể hiện các Tôi trong chính mình [Xem 1, 34]. Đạo đức học phân tâm học là một trào l−u quan trọng khác của xu h−ớng đạo đức học nhân bản phi duy lý. Các nhà phân tâm học nh− S. Freud (1856-1939), E. Fromm (1900-1980) và C.G. Jung (1875-1961) tập trung vào vấn đề vô thức và coi vô thức là nguồn gốc cơ bản của các hành động con ng−ời. Freud xác định cấu trúc tâm lý con ng−ời gồm 3 yếu tố: 1) “cái nó” (cái vô thức), 2) “cái tôi” (ý thức) và 3) “cái siêu tôi” (yếu tố văn hóa xã hội), trong đó “cái siêu tôi” là yếu tố quan trọng nhất, mà biểu hiện khách quan của nó là môi tr−ờng văn hóa xã hội gắn liền với các cơ chế quy định về xã hội đối với hành vi con ng−ời nh− các tập quán, truyền thống, các điều cấm kỵ, các yêu cầu của tôn giáo, tín ng−ỡng, các quy phạm đạo đức tác động đến con ng−ời từ thời thơ ấu. Theo Freud, hành vi của con ng−ời đ−ợc xác định không chỉ bởi ý thức, mà còn bởi cái vô thức. Coi lĩnh vực vô thức trong tâm lý của con ng−ời nh− một con ngựa, còn ý thức nh− ng−ời kỵ sĩ, ông cho rằng, ng−ời kỵ sĩ không phải lúc nào cũng điều khiển đ−ợc con ngựa và thậm chí con ngựa th−ờng không tuân theo ng−ời kỵ sĩ. Đối với Freud, cái vô thức liên quan đến một lớp lớn nhất và sâu sắc nhất trong tâm lý con ng−ời. Lớp vô thức này của tâm lý con ng−ời hoạt động trên cơ sở các bản năng tự nhiên với tính cách là những khuynh h−ớng khởi đầu. Cái vô thức này quy định những xúc cảm tâm lý và ý thức về chúng, đồng thời thể hiện khát vọng tự bảo tồn mang tính cá nhân và khát vọng tự bảo tồn mang tính loài. Cả hai dạng khát vọng này, theo Freud, thể hiện rõ nhất ở bản năng tính dục, trong đó khát vọng duy trì nòi giống trùng hợp với sự thỏa mãn mãnh liệt nhất (khoái cảm). Do vậy, theo ông, trình độ đầu tiên của đời sống tâm lý tuân theo nguyên tắc thỏa mãn và Libido (tức là sự ham mê nhục dục mãnh liệt, sự khao khát thỏa mãn và sự giải thoát khỏi đau khổ do sự dồn nén của năng l−ợng tâm lý gây ra) chính là bản chất của cái vô thức. Bản năng Libido đó h−ớng đến việc duy trì đời sống chính là thể hiện bản năng sống. Từ quan điểm phân tâm học của Freud, trong con ng−ời có 2 loại bản năng đối nghịch với nhau hoạt động một cách vô thức: (1) bản năng h−ớng đến cuộc sống, đến hạnh phúc, trong đó có khát vọng tính dục, bản năng sống (eros) và (2) bản năng h−ớng đến sự hủy hoại, h−ớng đến cái chết, bản năng chết (thanatos). Hoạt động của con ng−ời bị quy định bởi sự t−ơng tác và nhân nh−ợng của hai loại bản năng đó, t−ơng ứng với hai loại ý chí đối nghịch với nhau hoạt động một cách vô thức: ý chí h−ớng đến cuộc sống và ý chí h−ớng đến cái chết. Freud cho rằng, để kiềm chế khát vọng nguyên sơ của ý thức, “cái tôi” sẽ tìm kiếm các con đ−ờng vòng, trong đó nó có thể thay đổi các mục đích nhằm hiện thực hóa năng l−ợng vô thức trên cơ sở cơ chế thăng hoa. Freud coi thăng hoa nh− là sự biến đổi và định h−ớng lại năng l−ợng sinh học - tính dục đ−ợc tích 38 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2013 tụ ở “cái nó” vào các khách thể ngoài tính dục, đặc biệt vào lĩnh vực văn hóa, trong đó có luân lý [Xem 10, 249-252]. Do vậy, ở Freud, chính “cái siêu tôi” đ−ợc hình thành với tính cách là ý thức cá nhân nhờ sự t−ơng tác năng l−ợng của cái vô thức với hiện thực của cuộc sống xã hội, nhờ khát vọng đè nén và kiềm chế tiềm năng phá hoại của cái vô thức trong con ng−ời và h−ớng tiềm năng đó vào các mục đích văn hóa. “Cái siêu tôi” đ−ợc xem là kết quả thăng hoa của cái vô thức và đ−ợc tạo ra nhờ cuộc đấu tranh của ý thức với những ham muốn vô thức và nhờ sự chuyển hóa những năng l−ợng của những ham muốn vô thức đó vào các dạng hoạt động văn hóa. “Cái siêu tôi” ràng buộc và khiến con ng−ời ngày càng lệ thuộc: nó gắn kết con ng−ời với các tín điều quyền uy của tôn giáo và các chuẩn mực đạo đức, tình cảm trách nhiệm và l−ơng tâm, đồng thời khống chế con ng−ời bằng các điều cam kết luân lý và t−ớc đi sự thỏa mãn cơ bản và hạnh phúc. Nói khác đi, trong cấu trúc tâm lý cá nhân, “cái siêu tôi” đóng vai trò của kẻ kiểm duyệt từ bên trong, của l−ơng tâm, của nhân cách từ lập tr−ờng của đạo đức xã hội, chèn ép những ham muốn vô thức. Nh− vậy, ngay từ đầu, Freud coi luân lý là lĩnh vực liên quan đến sức ép, sự c−ỡng bức và sự đánh mất tự do. Theo Freud, con ng−ời sống giữa hai khả năng lựa chọn: (1) cố gắng là ng−ời hạnh phúc, sau khi vứt bỏ những điều kiện ràng buộc của ý thức và văn hóa, sau khi v−ợt qua mọi ranh giới và tự do hiện thực hóa các mong muốn của mình; (2) sử dụng các thành tựu của nền văn minh và văn hóa, th−ờng xuyên vấp phải các hạn chế và cấm kỵ, luôn cảm thấy mình là kẻ bị chèn ép, kẻ không có tự do, kẻ bất hạnh [Xem 4, 86-112]. Phát triển t− t−ởng của Freud trong khuôn khổ trào l−u phân tâm học, các đại biểu của chủ nghĩa Freud mới nh− Erich Fromm (1900-1980), Carl Gustav Jung (1875-1961), Karen Horney (1885-1952) đã cố gắng tránh lý giải các quan hệ đạo đức một cách hạn hẹp từ quan điểm về sự thăng hoa tính dục và đ−a ra khái niệm “vô thức tập thể” bị quy định bởi các yếu tố xã hội. Trong tác phẩm Bàn về tâm lý học của cái vô thức và Mối quan hệ giữa cái tôi và cái vô thức, Gustav Jung đã đ−a ra định nghĩa về c− mẫu (archetype), tức là toàn bộ các mẫu tâm lý sâu sắc thể hiện các xu h−ớng văn hóa và đạo đức của loài. Còn trong tác phẩm Có hay là tồn tại và Chạy trốn khỏi tự do, Erich Fromm đã quy “vô thức tập thể” về hai xu h−ớng cơ bản: xu h−ớng thứ nhất - bản năng sống, tình yêu cuộc sống (eros) h−ớng đến việc tự thực hiện, hiện thực hóa các mầm mống sáng tạo của mình; xu h−ớng thứ hai - bản năng chết (thanatos) h−ớng đến việc sở hữu, chinh phục hiện thực xung quanh, dẫn đến hủy hoại hiện thực đó và tự hủy hoại. Theo Fromm, trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của nhân loại, các xu h−ớng này lần l−ợt chiếm vị trí nổi trội trong nền văn hóa hoặc đ−ợc duy trì ở sự kết hợp nhất định giữa chúng. Các xu h−ớng này sẽ để lại dấu ấn của chúng ở cấu trúc đạo đức của nhân cách và quy định các mối quan hệ đạo đức nổi trội trong xã hội. Gắn sáng tạo với cái thiện và phẩm hạnh, coi cái ác là những trở ngại cho sự phát triển các năng lực của con ng−ời, Fromm cho rằng, những khát vọng tính Đạo đức học ph−ơng Tây 39 dục có thể chuyển thành sự sáng tạo nh− là khát vọng cao cấp hơn. Từ đây, Fromm phân biệt hai dạng định h−ớng luân lý: dạng không hiệu quả và dạng hiệu quả. Dạng định h−ớng luân lý không hiệu quả có các đặc điểm nh− tính thụ động, sự bóc lột, sự tích lũy, thị tr−ờng và th−ờng xuất hiện trong “các xã hội tiêu thụ”. Con ng−ời thuộc dạng này có thể đi theo con đ−ờng vị lợi. Vì vậy, Fromm coi dạng định h−ớng luân lý không hiệu quả này là biểu hiện của cái ác. Còn dạng định h−ớng luân lý hiệu quả có xu h−ớng phát triển những năng lực bên trong của mỗi con ng−ời h−ớng đến việc hoàn thiện chúng một cách đầy đủ [Xem 5, 348]. III. Khuynh h−ớng đạo đức học tôn giáo Khuynh h−ớng này thể hiện rõ nhất trong đạo đức học của chủ nghĩa Tômát mới và của thuyết Tin lành mới. Các học thuyết tôn giáo này là kết quả của việc cách tân các nền tảng của các học thuyết tôn giáo truyền thống trong điều kiện hiện đại. Chủ nghĩa Tômát mới là nền tảng cho học thuyết triết học – đạo đức học của Giáo hội Công giáo tại Vatican. Có thể kể đến các đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa Tômát mới nh− J. Maritain (1882- 1973), E. Gilson (1884-1978), A. D. Sertillanges (1863-1948) ở Pháp, Van Steenberghen (1904-1993) ở Bỉ, J. B. Lotz (1903-1992) và Karl Rahner (1904- 1984) ở Đức, cố Giáo hoàng Giovanni Paolo (1920-2005) ở Ba Lan, v.v Các nhà t− t−ởng này đặt cho mình nhiệm vụ xem xét lại di sản t− t−ởng của Tommaso d’Aquino có tính đến những khuynh h−ớng mới nhất và cố gắng kết hợp cách tiếp cận tôn giáo – thần học với thế giới quan duy lý – duy khoa học đã đ−ợc khẳng định trong thời đại hiện nay. Chủ nghĩa Tômát mới đã sử dụng các t− t−ởng của các trào l−u triết học và đạo đức học khác, đặc biệt là khuynh h−ớng triết học thực chứng – duy khoa học và khuynh h−ớng hiện sinh chủ nghĩa, nói khác đi, sử dụng các yếu tố hợp lý của cả chủ nghĩa duy lý, duy khoa học lẫn chủ nghĩa phi duy lý. Chẳng hạn, E. Gilson chủ tr−ơng duy trì sự thống nhất giữa khoa học và tôn giáo mà Th−ợng Đế hay Đức Chúa trời là sự đảm bảo cho nó. Còn J. Maritain thì đề cập đến hoạt động thần bí của tồn tại. Hoạt động thần bí này xuất phát từ Th−ợng Đế và đóng vai trò là nền tảng cho giới tự nhiên và các mối quan hệ đạo đức trong xã hội loài ng−ời. Maritain coi sự thống nhất của “thế giới trần gian” (với các thành tựu khoa học và kỹ thuật) và “n−ớc Chúa” là hiện thân lý t−ởng của chủ nghĩa nhân văn. Trong khi đó, dựa vào M. Heidegger, Karl Rahner đ−a ra nguyên lý “nhân học thần học” và tập trung vào đặc thù của “tồn tại ng−ời trong thế giới” bao gồm tính khai mở th−ờng trực, “sự siêu v−ợt” h−ớng đến tồn tại của Th−ợng Đế. Theo đạo đức học Tômát mới, tự do ý chí quy định các hành vi của con ng−ời và là tiền đề cho tự do đạo đức: nếu không có tự do ý chí và tự do lựa chọn, thì không thể nói đến hành vi đạo đức hay vô đạo đức. Về phần mình, tự do đạo đức bị hạn chế bởi bổn phận đạo đức. Luân lý Tômát mới đ−ợc coi là phục tùng tôn giáo theo ph−ơng châm “Sống với đôi mắt khát khao v−ơn lên bầu trời”. Các nhà t− t−ởng Tômát mới đ−a ra thuyết biện thần để giải thích nguồn gốc của cái ác. Theo họ, mọi tội lỗi và cái ác 40 Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2013 ngự trị trên thế giới đều bắt nguồn từ việc con ng−ời sử dụng không đúng đắn hoặc lạm dụng tự do ý chí. Tự do ý chí của con ng−ời nh− là tặng vật và là hồng phúc vĩ đại nhất có đ−ợc từ Đức Chúa trời. Không thể trách Chúa, vì đã ban cho con ng−ời tự do ý chí vốn h−ớng thiện, mà phải cám ơn Chúa về điều đó. Con ng−ời có lỗi, nếu không biết sử dụng ân sủng cần thiết của Chúa. Đạo đức học của thuyết Tin lành mới là một trong những trào l−u có ảnh h−ởng của khuynh h−ớng đạo đức học tôn giáo, đ−ợc hình thành trong thế kỷ XX trên cơ sở phát triển đạo đức học của thuyết Tin lành. Về phần mình, thuyết Tin lành đ−ợc tách ra khỏi đạo Công giáo từ thế kỷ XV-XVI theo tinh thần nhận thức cá nhân về Th−ợng Đế. Đạo đức học Tin lành mới đ−ợc phổ biến chủ yếu ở Thụy Sĩ với các đại biểu chủ yếu nh− Karl Barth (1886-1968), H. E. Brunner (1889-1966) và ở Hoa Kỳ với các đại biểu nh− Paul Johannes Tillich (1886-1965) và Karl P. R. Niebuhr (1892-1971). Khi luận giải các khuynh h−ớng đạo đức hiện đại, Barth và Tillich đã đề cập đến “nỗi lo sợ thần bí” và “mối quan tâm tiền định” (gần gũi với các khái niệm của chủ nghĩa hiện sinh) của chủ thể đạo đức có nguồn gốc từ sự tha hóa của chủ thể này khỏi Th−ợng Đế. Brunner tìm thấy giải pháp trong đức tin cá nhân, trong sự tự siêu v−ợt theo mô hình cuộc đời của Đức Chúa Jesus. Còn Niebuhr coi “chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo” là khả năng lựa chọn khác đối với “nỗi lo sợ” hiện sinh. Chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo là sự hy vọng khiêm nh−ờng ở Đức Chúa trời không thể tiếp cận từ quan điểm duy lý - duy khoa học. Theo Niebuhr, trong điều kiện hiện nay, đức tin cá nhân có thể và cần phải điều chỉnh thế giới quan của mỗi ng−ời để tránh khỏi những hành vi thiếu chín chắn. Chẳng hạn các nhà khoa học có đức tin chân chính cố gắng không tạo ra các loại vũ khí giết ng−ời hàng loạt và làm gia tăng những nguy cơ hủy hoại môi tr−ờng. Đạo đức học của thuyết Tin lành mới đ−a ra kết luận rằng, tiêu chuẩn đạo đức cần đ−ợc chuyển dịch vào bên trong ý thức của chủ thể và trở thành l−ơng tâm của chủ thể. Một trào l−u độc đáo trong khuynh h−ớng đạo đức học tôn giáo ph−ơng Tây thế kỷ XX là đạo đức học của Albert Schweitzer (1875-1965), một nhà t− t−ởng ng−ời Đức, là “đạo đức học về sự tôn trọng cuộc sống” (Ethik der Ehrfurcht vor dem Leben) hay đạo đức học nhân văn. Ông cũng đ−ợc coi là một nhà t− t−ởng độc đáo của chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo. Theo Schweitzer, nguyên tắc phổ quát của đạo đức và cách thức giải thoát khỏi khủng hoảng văn hóa và tinh thần là sự tự chối bỏ và tự hoàn thiện. Nguyên tắc xuất phát của đạo đức học của ông là sự kiện của cuộc sống, đ−ợc thể hiện trong luận điểm “Tôi là cuộc sống muốn đ−ợc sống trong cuộc sống đang muốn đ−ợc sống”. Từ đó, theo ông, tôn trọng mọi sinh vật sống và khao khát duy trì bất cứ sự sống nào ở mọi nơi mọi lúc và trợ giúp cho nó chính là nguyên tắc có khả năng lý giải đạo đức và giúp cho việc củng cố văn hóa và tinh thần. * * * Trên đây, chúng tôi đã đ−a ra ba khuynh h−ớng chủ yếu trong đạo đức học ph−ơng Tây hiện đại gắn liền với Đạo đức học ph−ơng Tây 41 chủ nghĩa duy lý – duy khoa học, chủ nghĩa phi duy lý và các học thuyết tôn giáo. Ngoài cách phân loại nh− trên, còn có các cách phân loại khác, phản ánh bức tranh rất đa dạng của các trào l−u đạo đức học ph−ơng Tây hiện đại cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Trong các trào l−u thuộc các khuynh h−ớng trên, theo chúng tôi cần đặc biệt chú ý nghiên cứu đến các trào l−u, các quan niệm đạo đức học ph−ơng Tây có ảnh h−ởng đến đời sống văn hóa và đạo đức Việt Nam kể từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, nh−: đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa nhân vị, phân tâm học, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa Tômát mới (t− t−ởng của Giáo hội Công giáo tại Vatican) và thuyết Tin lành mới. Đây là một chủ đề thú vị có thể đ−ợc đề cập đến trong các bài viết khác Tài liệu tham khảo 1. Buber, M. (1958), I and Thou, trans R.G. Smith, New York: Scribner’s. 2. Bourke, Vernon J. (1968), History of Ethics, Vol. 2: Modern Contemporary Ethics. 3. Franz Brentano (1921), Vom Ursprung sittlicher Erkenntnis, 2. Aufl., nebst kleineren Abhandlungen zur ethischen Erkenntnistheorie und Lebensweisheit, hrsg. und eingeleitet von Oskar Kraus, Leipzig: F. Meiner. 4. Freud, Sigmund (1973), Totem und Tabu: Einige Uebereinstimmungen im Seelenleben der Wilden und der Neurotiker, Hamburg: Fischer Bucherei. 5. E. Fromm (1993), Phân tâm học và Thiền, Nxb. Văn Hóa Thông tin, Hà Nội. 6. Huegli, Anton und Luebcke, Poul (Hg.) (1993), Philosophie im 20, Jahrhundert, Band 2, Hamburg. 7. Moore, G.E. (1993), Ethics, London: Oxford University Press, 1965, tr.55. 8. Sartre, J.P. (1956), Being and Nothingness, trans. Hazel Barnes, New York: Philosophical Library. 9. Warnock, M. (1970), Existentialist Ethics, Macmillan: St. Martin’s Presss. 10. The Encyclopedia of Philosophy, Volumes 3, New York: Macmillan Publishing Co., Inc. & The Free Press, 1967.
File đính kèm:
- dao_duc_hoc_phuong_tay_duong_dai_tong_quan_cac_trao_luu_va_c.pdf