Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển bền vững điện mặt trời tại Việt Nam
Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu điện cao trong giai đoạn từ 2021-2025,
nhất là năm 2023 dự báo thiếu hụt khoảng 12 tỷ kWh. Do đó, cần thiết phải phát triển các nguồn
điện nhằm đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia.
Việt Nam lại có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời. Trong hai năm vừa qua, đã có nhiều văn
bản chính sách với những cơ chế ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển điện mặt trời. Tuy nhiên, sự phát triển rất nhanh, mang tính đột phá các dự án điện mặt
trời vừa qua đã bộc lộ ra những khó khăn, bất cập và thách thức. Nội dung chính của bài báo đi
sâu vào đánh giá thực trạng phát triển điện mặt trời, chỉ ra những tồn tại và thách thức, từ đó đưa
ra một số giải pháp nhằm từng bước tháo gỡ và tạo điều kiện cho phát triển bền vững điện mặt
trời tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển bền vững điện mặt trời tại Việt Nam
tổng công suất vào khoảng 12MWp. Tuy nhiên, con số này còn nhỏ so với tiềm năng ĐMT rất lớn tại Việt Nam. Đến hết tháng 7/2019 của Tổng công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC) về ĐMT mái nhà tại 21 tỉnh, thành miền Nam: có 4.817 khách hàng đã được EVNSPC lắp đặt công tơ 2 chiều. Tổng công suất ĐMT mái nhà của khách hàng đạt 109.229 kWp, vượt 113% kế hoạch mà Tập đoàn Điện lực Việt Nam giao EVNSPC (95.000 kWp). Ngoài ra, EVNSPC cũng đang tiếp tục lắp đặt ĐMT mái nhà tại các mái nhà văn phòng của các đơn vị trực thuộc. Đến hết tháng 7/2019, Tổng công ty đã thực hiện đầu tư lắp đặt tại 179 vị trí với tổng công suất 7.369 kWp, trong đó có 167 vị trí (công suất 6.884 kWp) đã đưa vào vận hành. Thống kê mới nhất của EVN đến hết tháng 12/2019, đã có gần 19.400 hệ thống ĐMT mái nhà được lắp đặt trên toàn quốc, tổng công suất là 318 MW [4]. Trong đó, tập trung chủ yếu tại khu vực phía nam, chiếm 73% tổng số hệ thống. 3.2. Những tồn tại và thách thức từ phát triển điện mặt trời Việc khai thác các nguồn NLTT nói chung và ĐMT nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về kinh tế, xã hội, an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Nhất là, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, hệ thống điện đang gặp khó khăn về nguồn cung thì việc phát triển các dự án ĐMT là sự bổ sung quý giá, có ý nghĩa to lớn cho hệ thống, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng. Ngoài ra không thể không kể đến các lợi ích khác KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 59 - 2020 101 như đây là nguồn năng lượng sạch, giảm thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh, mang tính đột phá về các dự án ĐMT vừa qua cũng bộc lộ ra những tồn tại và thách thức không nhỏ. - Về văn bản chính sách, công tác quản lý: Nguồn năng lượng mặt trời hấp dẫn các nhà đầu tư bao nhiêu thì thách thức đặt ra cho các đơn vị quản lý cũng lớn bấy nhiêu. Hiện nay vẫn chưa có Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ĐMT. Các Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) liên quan đến ĐMT hầu hết được chuyển đổi từ tiêu chuẩn Tiêu chuẩn do Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế xây dựng (IEC). Tuy nhiên, các hướng dẫn của EVN, các Công ty điện lực, các đơn vị tư vấn, chủ đầu tư chưa đề cập và xem xét áp dụng theo TCVN, chủ yếu là hướng dẫn, áp dụng theo Tiêu chuẩn IEC. Các yêu cầu quy định kỹ thuật đối với ĐMT hiện nay đang áp dụng theo quy định tại các Thông tư số 39/2015/TT-BCT; Thông tư số 16/2017/TT-BCT và Quy chuẩn chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến hệ thống điện. Trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn, đã phát sinh một số vấn đề khó khăn vướng mắc liên quan đến vấn đề đấu nối, công tác kiểm tra, thí nghiệm một số yêu cầu còn chưa thống nhất giữa các công ty Điện lực. Các hướng dẫn của Công ty điện lực Miền và Tỉnh chưa thể hiện rõ nhiệm vụ Sở Công thương trong việc hướng dẫn, quản lý hoạt động phát triển ĐMT mái nhà. Khách hàng còn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục lắp đặt ĐMT mái nhà. Các hướng dẫn triển khai ĐMT mái nhà chưa đề cập đến các hướng dẫn, quy định về an toàn kết cấu giàn đỡ pin. Việc triển khai lập quy hoạch phát triển ĐMT quốc gia chưa đáp ứng yêu cầu điều hành chung về phát triển ĐMT. Công tác quản lý quy hoạch phát triển ĐMT còn thiếu tính khoa học và thực tiễn. Nên vừa qua đã xảy ra hiện tượng đầu tư ồ ạt, theo phong trào, nhất là việc đầu tư quá mức vào một số khu vực gây rất khó khăn trong truyền tải điện, giải toả công suất các nhà máy điện, ảnh hưởng đến công tác vận hành hệ thống điện quốc gia và gây ảnh hưởng quyền lợi nhà đầu tư. Cơ chế, chính sách về giá điện chưa nhất quán, chưa có lộ trình dài hạn. Việc ban hành chưa kịp thời gây lúng túng và khó khăn cho các nhà đầu tư và cơ quan quản lý vì nhiều dự án đã được các cấp có thẩm quyền quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư. Theo Quyết định 11/2017/QĐ-TTg, giá mua ĐMT là 2.086 đồng/kWh (tương đương 9,35 UScents/kWh) chỉ áp dụng cho các dự án nối lưới có hiệu suất của tế bào quang điện lớn hơn 16%, hoặc module lớn hơn 15% đã hết hiệu lực từ ngày 30/6/2019. Do đó, chưa biết giá áp dụng cho các dự án ĐMT sau đó và trong tương lai sẽ như thế nào. Gần đây nhất, sau 9 tháng chờ đợi kể từ khi Quyết định 11/2017/QĐ-TTg hết hiệu lực vào ngày 30/6/2019, ngày 06/04/2020 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg về cơ chế khuyến khích phát triển ĐMT tại Việt Nam. Theo Quyết định mới, giá mua điện cho dự án ĐMT nổi tương đương 7,79 UScents/kWh, dự án ĐMT mặt đất là 7,09 UScents/kWh và hệ thống ĐMT mái nhà là 8,39 UScents/kWh. Giá này được áp dụng cho các dự án nối lưới (đã có quyết định đầu tư trước ngày 23/11/2019) và các dự án ĐMT mái nhà đều phải có thời gian vận hành từ 01/07/2019 đến 31/12/2020. Các dự án khác, không thuộc diện này sẽ được xác định thông qua cơ chế cạnh tranh. Ngoài ra, thiếu mạng lưới dịch vụ; thiếu cán bộ công nhân vận hành, bảo trì, bảo dưỡng được đào tạo; thiếu cơ chế quản lý phù hợp; v.v nên dẫn đến hệ quả là hiệu quả sử dụng nguồn ĐMT không cao, thậm chí là lãng phí. - Về công nghệ, kỹ thuật và các điều kiện liên quan: Quy mô công suất nguồn ĐMT bổ sung rất lớn so với dự kiến trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh, trong khi đó nội dung tính toán và cập nhật cơ cấu nguồn điện, hệ thống điện quốc gia chưa được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Hơn nữa, KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 59 - 2020 102 cơ sở hạ tầng về lưới điện chưa phát triển kịp, chưa sẵn sàng để giải phóng công suất. Vì để đầu tư lưới truyền tải cần từ 3 đến 5 năm, trong khi để làm ĐMT thì mất khoảng 1 năm. Nên việc phát triển nóng và ồ ạt các dự án điện mặt trời tập trung tại một số tỉnh như Ninh Thuận, Bình Thuận đã gây ra hiện tượng quá tải lưới điện, không giải phóng hết công suất. Cụ thể, tại Ninh Thuận và Bình Thuận - 2 địa phương đứng đầu về ĐMT: Dự kiến đến hết năm 2020, trong khi công suất mà điện gió, ĐMT có thể sản sinh ra hơn 4000 MW nhưng theo trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia thì nhu cầu phụ tải đến cuối năm 2020 tại Ninh Thuận chỉ dao động từ 100-115 MW, còn ở Bình Thuận là 250-280 MW. Hầu hết các đường dây từ 110 - 500 KV qua địa bàn 2 tỉnh này luôn trong tình trạng quá tải. Kéo theo đó, nhiều dự án ĐMT dù đã lắp đặt xong nhưng không thể phát điện, hoặc một số dự án phải giảm công suất xuống chỉ còn khoảng 40% so với thiết kế ban đầu. Công nghệ ĐMT mái nhà vẫn còn là một công nghệ mới đối với Việt Nam, nên bước đầu việc triển khai phát triển ĐMT mái nhà nối lưới còn có một số bất cập. Cụ thể, công nghệ mới này lại chưa có nhiều mô hình thực tế, nên cả các Công ty điện địa phương và các hộ dân còn chưa có nhiều hiểu biết về kỹ thuật lắp đặt, vận hành và các dịch vụ mua bán điện. Trong quá trình xây dựng, đã phát sinh một số vấn đề khó khăn vướng mắc liên quan đến vấn đề đấu nối các nguồn ĐMT mái nhà với lưới điện cấp điện áp hạ áp, vấn đề về chất lượng thiết bị do có nhiều nhà cung cấp. Hạ tầng lưới điện ở nhiều khu vực đông dân cư chưa đáp ứng được việc tiếp nhận lượng điện năng mà các nguồn ĐMT của nhiều hộ phát lên lưới cùng một lúc, đặc biệt vào các thời gian giữa trưa hàng ngày trong mùa hè. Nguồn ĐMT có hệ số công suất thấp (từ 15% đến 18%), công suất phát không ổn định sẽ gây khó khăn trong điều khiển, điều độ hệ thống điện và phải tăng dự phòng của hệ thống điện nhằm bảo đảm ổn định hệ thống điện. Việc vận hành lưới điện tích hợp đòi hỏi một phương thức mới, phức tạp hơn, Các dự án ĐMT thực tế thường có yêu cầu sử dụng đất lớn, tỷ lệ diện tích chiếm đất của các dự án dao động từ 1,0 - 1,4 ha/MWp (Bảng 2). Một số nhà máy ĐMT có công suất nhỏ hoặc ở vùng có mật độ NLMT thấp, tỷ lệ này có thể cao hơn. Việt Nam có mật độ dân số cao (gấp hơn 5 lần mật độ dân số trung bình trên thế giới) nên đây là vấn đề lớn. Theo Điều 10, Thông tư số 16/2017/TT-BCT, một trong số các điều kiện đầu tư dự án ĐMT là diện tích sử dụng đất lâu dài không quá 1,2 ha/MWp. Bảng 2: Thống kê một số nhà máy ĐMT tại Việt Nam [5] TT Tên Nhà máy T nhỉ Công su tấ (MWp) Di n tích ệ chi m ế đ tấ (ha) T l ỷ ệ chi m ế đ tấ (ha/MWp) 1 Nhà máy MT Trung Nam Ninh Đ Thu nậ Ninh Thu nậ 258 264 1,02 2 Nhà máy MT CMX Đ Renewable Vi t ệ Nam Ninh Thu nậ 168 186 1,11 3 Nhà máy MT Trung Nam Trà VinhĐ Trà Vinh 156 171,17 1,10 4 Nhà máy MT MĐ Sỹ nơ - Hoàn L c ộ Vi tệ Ninh Thu nậ 50 64,57 1,29 5 Nhà máy MT Adani PhĐ ư c Minhớ Ninh Thu nậ 49,8 59,86 1,20 6 Nhà máy MT BP Solar 1Đ Ninh 46 62,26 1,35 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 59 - 2020 103 Thu nậ 7 Nhà máy MT VĐ nh Tân 2ĩ Bình Thu nậ 42,65 50 1,17 8 Nhà máy MT PhĐ ư c H u ớ ữ – iĐ n ệ l c 1ự Ninh Thu nậ 30,24 36 1,19 9 Nhà máy MT MĐ ộ Đ cứ Quãng Ngãi 19,2 24 1,25 10 Nhà máy MT BĐ ình Hòa An Giang 12 14 1,17 Đối với Pin mặt trời được cấu tạo, sản xuất từ nhiều vật liệu khác nhau: kính, kim loại (chì, đồng, gallium và cadmium), tế bào năng lượng mặt trời silicon, vật liệu tổng hợp khác,Việc phát triển nóng ĐMT trong giai đoạn này còn đặt ra một áp lực không nhỏ trong tương lai đó là vấn đề xử lý các tấm Pin dùng để thu nhiệt khi không còn sử dụng. Đến thời điểm này vẫn chưa có một quy định, quy trình cụ thể nào cho việc xử lý các tấm Pin này. Với tốc độ tăng trưởng nhanh như hiện nay thì vấn đề môi trường chắc chắn sẽ trở thành một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong vài thập niên nữa nếu không có giải pháp kịp thời. - Về tài chính, vốn đầu tư: Thời gian gần đây, công nghệ ĐMT đã có sự giảm rất kịch tính. Trước năm 2010, suất đầu tư cho hệ thống ĐMT rất cao, thường dao động từ 7000 - 9000 USD/kWp. Tuy nhiên, từ năm 2010 trở lại đây, suất đầu tư cho ĐMT liên tục giảm, chủ yếu là do giá mô đun Pin mặt trời đã giảm nhanh, suất đầu tư phổ biến hiện nay khoảng trên dưới 1000 USD/kWp. Do đó, dẫn đến giá ĐMT cũng giảm theo. Theo PGS.TS Đặng Đình Thống - Hội Khoa học công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cho biết, giá ĐMT giảm liên tục, với tốc độ rất nhanh, trung bình trên thế giới đã giảm hơn 72% so từ năm 2010 đến năm 2017. Năm 2010 giá ĐMT là 36 UScents/kWh (đồng USD), thì đến năm 2017 đã giảm xuống chỉ còn 10 UScents/kWh. Theo dự báo, đến năm 2030 và 2035, giá ĐMT sẽ còn tiếp tục giảm sâu xuống khoảng 5,8 UScents/kWh và 5,4 UScents/kWh. Hơn nữa, từ năm 2025, dự báo giá ĐMT sẽ thấp hơn giá các nguồn điện hóa thạch. Chính vì vậy, nhờ có Quyết định 11/2017/QĐ-TTg được ban hành kịp thời, với những cơ chế ưu đãi, hấp dẫn về giá mua và sự hỗ trợ đặc biệt từ phía EVN nên đã khuyến khích được các nhà đầu tư và các hộ gia đình đầu tư, tạo bước đột phá trong phát triển ĐMT trong thời gian vừa qua. Do giá ĐMT ngày càng giảm, cộng với tiềm năng ĐMT cao sẽ tạo điều kiện cho phát triển ĐMT, tăng tỷ lệ ĐMT trong hệ thống (hiện nay tỷ lệ ĐMT khoảng 10%), làm thay đổi cơ cấu nguồn điện. Do đó, sẽ có ảnh hưởng đến công tác điều khiển vận hành hệ thống điện. 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO PHÁT TRIỂN ĐIỆN MẶT TRỜI Xây dựng chính sách đồng bộ, thống nhất từ quy hoạch, thiết kế xây dựng, khai thác vận hành đối với ĐMT. Sớm ban hành Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về ĐMT bao gồm cả ĐMT mái nhà. Thống nhất hướng dẫn việc áp dụng các tiêu chuẩn về ĐMT. Xây dựng và ban hành luật năng lượng tái tạo. Nghiên cứu xây dựng quy trình và lộ trình thực hiện đấu thầu phù hợp, mang lại hiệu ích cho cả nhà đầu tư và hiệu quả kinh tế, xã hội đối với các dự án ĐMT nối lưới. Đối với các dự án ĐMT mái nhà, do không tác động đến quy hoạch và kế hoạch sử dụng diện tích đất, do đó sẽ là một trong những giải pháp quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong những năm tới. Cần rà soát, xây dựng lộ trình về giá KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 59 - 2020 104 mua và cơ chế hỗ trợ, khuyến khích phát triển theo hướng thương mại. Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn, quy định hướng dẫn về thiết bị, công nghệ, lắp đặt, đấu nối và vận hành hệ thống ĐMT mái nhà. Lập quy hoạch phát triển ĐMT quốc gia và cấp địa phương với lộ trình thích hợp, đồng bộ với phát triển hạ tầng lưới điện truyền tải, nguồn điện dự phòng và cơ cấu nguồn điện. Khi cơ cấu nguồn điện thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ ĐMT cần đổi mới, hoàn thiện công nghệ và phương thức vận hành hệ thống điện tích hợp. Do hệ thống điện hiện nay đang gặp khó khăn về nguồn cung, nhất là về công suất nên cần sớm có biện pháp xây dựng lưới điện truyền tải để giải phóng công suất cho các nhà máy ĐMT đang bị giảm phát, tránh gây lãng phí nguồn cung. Ngoài ra, có thể: Phát triển các cụm công nông nghiệp, thủy sản có sử dụng phụ tải ở những khu vực có tiềm năng phát triển ĐMT; Xây dựng các trạm thủy điện tích năng hoặc tích trữ năng lượng để hạn chế việc giảm công suất truyền tải. Nghiên cứu ban hành các quy định về quản lý, các quy định về thu gom, xử lý, tái chế thiết bị chính của ĐMT khi không còn sử dụng. Đây là vấn đề lớn trong tương lai gần, cần có quy định pháp lý và chính sách rõ ràng, cộng với các cơ chế hạ tầng cụ thể. Để giảm diện tích chiếm đất, cần nghiên cứu đưa vào điều kiện đầu tư dự án ĐMT với tỷ lệ chiếm đất có lộ trình giảm dần nhằm khuyến khích nhà đầu tư chọn sử dụng tấm Pin có hiệu suất cao, phát triển các dạng khác như ĐMT nổi, ĐMT mái nhà. Có kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển thị trường ĐMT. 5. KẾT LUẬN Hiện nay, do nguồn năng lượng hóa thạch ngày càng cạn kiệt, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang là vấn đề toàn cầu, nhu cầu năng lượng không ngừng tăng, giá ĐMT ngày càng rẻ nên việc khai thác sử dụng nguồn ĐMT sẽ là xu yếu tất yếu của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Do đó, song song với các cơ chế khuyến khích phát triển ĐMT cần có cơ chế, yêu cầu minh bạch các số liệu quan trắc theo thời gian thực không chỉ thông số về điện mà cả các thông số về môi trường xung quanh khu vực dự án, có tài liệu thống kê phục vụ cho các nghiên cứu đánh giá thực trạng phát triển sau mỗi giai đoạn, từ đó có những giải pháp hữu hiệu, kịp thời đảm bảo sự phát triển bền vững ĐMT. Trong phạm vi bài báo này, một số giải pháp đưa ra mang tính định hướng. Để có những giải pháp chi tiết, cụ thể đòi hỏi có những nghiên cứu sâu và rộng hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Công Thương, web: https://moit.gov.vn/ [2] https://solarpower.vn/. [3] Nguyễn Anh Tuấn và các Cộng sự, Đánh giá tiềm năng năng lượng mặt trời cho phát điện ở Việt Nam - Triển vọng và nhận định. Viện năng lượng, 2018 [4] Tập đoàn Điện lực Việt Nam, web: https://evn.com.vn/ [5] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo Đầu tư điện tử, web: https://baodautu.vn/
File đính kèm:
- danh_gia_thuc_trang_va_de_xuat_giai_phap_phat_trien_ben_vung.pdf