Đánh giá thực trạng tảo hôn ở vùng dân tộc thiểu số huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2018
Tảo hôn đã làm cho chất lượng nguồn nhân lực bị suy giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe,
dáng vóc và khả năng lao động của con người. Xuất phát từ thực trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết
thống ở vùng dân tộc thiểu số huyện Chư Prông từ năm 2015 đến năm 2018, bằng phương phá p phỏng
vấn cấu trú c và nghiên cứu tà i liệu, nhóm nghiên cứu đã thiết kế phiếu điều tra và tiến hành khảo sát
349 cặp vợ chồng có liên quan đến tảo hôn đang định cư tại 12 thôn, làng thuộc 6 xã có số cặp tảo hôn
cao nhất huyện bao gồm (Ia Boòng, Ia O, Ia Púch, Ia Vê, Ia Ga, Ia Piơr). Từ kết quả khảo sát thực địa,
nhóm nghiên cứu tiến hành xử lý số liệu và đi đến xác định nhóm dân tộc thiểu số có tình trạng tảo hôn
cao phân theo dân tộc, giới tí nh, lứa tuổi và địa bà n cư trú . Đồng thời tìm hiểu nhận thức của người
dân về vấn đề tảo hôn và Luật Hôn nhân và gia đình. Từ đó, xá c định nguyên nhân và đề xuất các giải
pháp giảm thiểu tảo hôn trên địa bàn huyện Chư Prông.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng tảo hôn ở vùng dân tộc thiểu số huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai từ năm 2015 đến năm 2018
7 trường hợp tảo hôn là người Kinh” [3, tr. 2]. Việc tảo hôn diễn ra đối với người Kinh đã cho thấy tảo hôn thực sự là một vấn nạn lớn cho cả xã hội trong tình hình hiện nay. Thứ tư, tình trạng tảo hôn xảy ra không chỉ đối với người đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, trình độ dân trí thấp, mà ở Chư Prông tảo hôn còn xảy ra ở cả những gia đình có điều kiện kinh tế khá giả. Điều đó chứng tỏ, sự nhận thức và hiểu biết của người dân về vấn đề dân số, sức khỏe sinh sản, Luật Hôn nhân và gia đình còn thấ p. Nâng cao nhậ n thứ c về tá c hạ i củ a tả o hôn đế n đờ i sống, sứ c khỏ e cho ngườ i dân nó i chung, ngườ i dân tộ c thiể u số nó i riêng là giả i phá p quan trọ ng gó p phầ n giả m thiể u tì nh trạ ng nà y. 3. Nguyên nhân dẫn đến tảo hôn ở Chư Prông Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật còn bất cập, nhận thức của người dân về Luật Hôn nhân và gia đình và tác hại của tảo hôn chưa cao: Với địa bàn rộng lớn, địa hình phức tạp như huyện Chư Prông, giao thông đi lại khó khăn, đại bộ phận người dân tộc ít người thường xuyên sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí tương đối thấp, tập quán du canh, du cư; nhiều hủ tục lạc hậu trong việc kết hôn, ly hôn, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con cái hoặc bất bình đẳng nam nữ trong quan hệ hôn nhân vẫn tồn tại. Qua điều tra thực địa của nhóm nghiên cứu cho thấy, người dân tiếp cận hệ thống pháp luật rất khó khăn, công tác tuyên truyền chỉ diễn ra theo các chiến dịch truyền thông mà không được tuyên truyền, phổ biến pháp luật thường xuyên và liên tục. Chính việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa đạt hiệu quả cao đã dẫn đến hiểu biết về pháp luật cũng như những tác hại của việc tảo hôn giữa người Kinh và người dân tộc thiếu số có sự chệnh lệch rất lớn. Xuất phát từ phong tục, tập quán lạc hậu: Phong tục của các dân tộc thiểu số tồn tại và ăn sâu trong nhận thức của người dân đã ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ trong đời sống, sinh hoạt của họ. Đối với đồng bào dân tộc thiếu số, việc kết hôn chủ yếu được thực hiện theo phong tục, tập quán; việc lấy vợ, lấy chồng chỉ cần sự đồng ý của những người đứng đầu trong buôn, làng hoặc của cha mẹ hai bên và sự chứng kiến của gia đình, họ hàng, làng xóm là đủ chứ không cần sự đồng ý của chính quyền địa phương và không chịu sự ràng buộc của luật pháp hiện hành. Quan niệm kết hôn sớm để có thêm người lao động sản xuất, ổn định cuộc sống gia đình, mộ t số gia đì nh quan niệ m đông con thì bề thế , đông con là m ra nhiề u củ a cả i, mộ t số buôn là ng cò n xem việ c có đông ngườ i sẽ là m cho buôn là ng có thêm sứ c mạ nh. Chí nh nhữ ng quan niệ m nà y đã là m cho tả o hôn ở Chư Prông vẫ n cò n tồ n tạ i. 4. Giải pháp giảm thiểu thực trạng tảo hôn ở Chư Prông Tăng cường tuyên truyền và phổ biến pháp luật gắn với xây dựng Hương ước tại các thôn làng của người dân tộc thiểu số. Phổ biến, giáo dục pháp luật là phương tiện truyền tải những thông tin, yêu cầu, nội dung và các qui định pháp luật về Luật Hôn nhân và gia đình đến người dân giúp người dân hiểu đúng pháp luật về hôn nhân gia đình, các quy định liên quan đến kết hôn sớm. Ngoài ra, để phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả cao, các cơ quan chuyên môn đứng đầu là Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và Ban Dân tộc của Ủy ban nhân dân huyện cần phải biên soạn tài liệu tuyên truyền, tờ rơi bằng tiếng Việt và tiếng của người dân tộc để dễ dàng tuyên truyền đến mọi người dân. Xây dựng Hương ước trong các thôn, làng người dân tộc thiểu số. Hương ước là những nguyện vọng do người dân tự đặt ra, được thảo luận, bàn bạc và nhất trí thông qua, phù hợp với pháp luật và phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân nên sẽ được toàn dân tự giác chấp hành. Hương ước của mỗi thôn làng cũng có những đặc điểm riêng mang đậm bản sắc tốt đẹp của mỗi thôn, làng gắn với tín ngưỡng, văn hóa, tâm linh của mỗi dân tộc, bên cạnh đó Hương ước cũng cần đề cao vấn đề xử phạt những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm pháp luật về tảo hôn. Vì vậy, một trong những giải pháp có tính pháp lý, có khả năng rà ng buộ c ngườ i dân tộc thiểu số thự c hiệ n là phải xây dựng các hương ước trong mỗi thôn, làng. Để hương ước thực sự trở thành quy tắc của từng thôn, làng nhưng lại mang tính pháp lý cao, bắt buộc mọi người đều phải thực hiện thì trước 72 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) hết Hương ước của các thôn làng phải đảm bảo thưởng đi liền với phạt, các hình phạt phải đủ tính giáo dục, răn đe và nêu gương đối với các thành viên trong cộng đồng. Phát huy vai trò của người có uy tín trong các thôn làng, xây dựng các mô hình câu lạ c bộ “nói không với tảo hôn” trong địa bàn dân cư. Xuất phát từ đặc thù văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên luôn đề cao vai trò của người đứng đầu trong các buôn, làng. Tính cố kết cộng đồng và sức mạnh của các thôn làng càng được đề cao khi có những người già làng, trưởng bản có uy tín. Vì vậy, cần phải phát huy vai trò gương mẫu, đi đầu của những người có uy tín trong các thôn làng người dân tộc thiểu số. Bởi lẽ, trong công tác tuyên truyền, thuyết phục đồng bào các dân tộc thiểu số chấp hành pháp luật về Hôn nhân gia đình thì người già làng, trưởng bản là người gần gũi và có uy tín nhất đối với mọi người dân, giữa họ không có rào cản nào về ngôn ngữ, phong tục và tập quán. Vì vậy, các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng rất thuận lợi trong việc tuyên truyền, vận động xóa bỏ những hủ tục lạc hậu và phòng, chống tảo hôn. Muốn làm được điều này, trước hết các cơ quan chuyên trách về pháp luật và dân số cần phải có những buổi tập huấn, tuyên truyền cụ thể những quy định của pháp luật, ảnh hưởng của việc tảo hôn cho các già làng, trưởng bản nhận thức sâu sắc. Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế động viên, khen thưởng kịp thời cho những già làng, trưởng bản tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện pháp luật. Đồng thời với việc phát huy vai trò của những người có uy tín trong các thôn làng thì cũng cần thành lập các câu lạc bộ “nói không với tảo hôn” nhằm tập hợp những gia đình có con em trong độ tuổi từ 13 đến 17 đăng ký cam kết không tổ chức gả hôn, ép hôn. Cùng với đó, câu lạc bộ này có nhiệ m vụ tư vấn tâm lý, vận động người dân từ bỏ dần các hủ tục trong hôn nhân, giúp đỡ cho những em gái trong độ tuổi đến trường tránh khỏi sự áp đặt của gia đình, của phong tục tập quán lạc hậu. Tăng cường giáo dục pháp luật và giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường. Tảo hôn xảy ra phần lớn ở lứa tuổi học sinh trung học, một phần do hoàn cảnh khó khăn của gia đình, hủ tục của địa phương nhưng cũng có một phần các em chưa được giáo dục kĩ năng sống, chưa được tuyên truyền về pháp luật phòng chống tảo hôn. Vì vậy, hầu hết các em đều không nhận thức được đầy đủ hậu quả sau khi kết hôn, hoặc khi bị ép hôn, gả hôn các em không có kỹ năng tự giải thoát khỏi những áp đặt từ người lớn và không tự khẳng định được quyền con người trong cuộc sống. Vì lẽ đó, giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường lúc này là rất cần thiết. Trước hết, cần phải tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, nhất là học sinh người dân tộc thiểu số, học sinh yếu thế trong nhà trường. Qua đó, các em có thể điều chỉnh hành vi theo đúng chuẩn mực xã hội, giúp cho các em có kĩ năng lựa chọn, vượt qua những rào cản, thách thức từ cuộc sống mà vươn lên trở thành người có ích, tránh xa vào các hủ tục, lạc hậu vốn đang ràng buộc người dân tộc mình. Khi được trang bị kĩ năng sống, học sinh sẽ có khả năng làm chủ bản thân, kiên định với chính kiến của mình và biết thương lượng, đàm phán khi gặp phải khó khăn trong cuộc sống. Kết quả nghiên cứu của tổ chức UNICEF năm 2012 trong báo cáo đánh giá hiệu quả các chương trình giáo dục kỹ năng sống trên toàn cầu kết luận rằng các chương trình giáo dục kĩ năng sống có kết quả làm giảm nguy cơ gặp các vấn đề về sức khỏe sinh sản như mang thai ngoài ý muốn, nâng cao sự tự tin của người học trước các mối quan hệ xã hội, nâng cao nhận thức của học sinh về quyền con người, ý thức xây dựng xã hội tiến bộ. Bên cạnh giáo dục kĩ năng sống, cũng cần tăng cường giáo dục phổ biến pháp luật cho học sinh. Đưa nội dung pháp luật vào chương trình giảng dạy chính khoá thông qua các môn học như Đạo đức (Tiểu học), Giáo dục công dân (Trung học). Thường xuyên giáo dục phổ biến pháp luật thông qua các hoạt động bổ trợ giáo dục như sinh hoạt tập thể, giáo dục ngoài giờ lên lớp, tổ chức buổi hoạt động ngoại khóa chuyên sâu về nâng cao chất lượng dân số, giảm thiểu tảo hôn để thu hút đông đảo học sinh tham gia. Thông qua chương trình phát thanh 73 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) thanh niên của Đoàn thanh niên cần có những bài tuyên truyền về hậu quả của việc kết hôn sớm đối với học sinh, từ đó làm thay đổi nhận thực của học sinh tích cực hơn. Giảm thiểu tảo hôn phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và chất lượng dân số. Để nâng cao chất lượng đời sống nhân dân cần tập trung phát triển kinh tế xã hội, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống nhân dân như điện, đường, trường, trạm. Đối với người dân tộc thiểu số việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống nhân dân phải gắn liền với việc quy hoạch, phát triển vùng kinh tế chuyên canh và đẩy lùi tập quán du canh, du cư của người dân. Gắn phát triển kinh tế với phát triển đời sống văn hóa, tinh thần. Ngoài ra, phải thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới trong vùng đồng bào dân tộc. Trong đó, xác định mục tiêu cụ thể là phải nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, có kết cấu kinh tế-xã hội phù hợp, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, xã hội nông thôn bình đẳng, ổn đinh, giàu bản sắc dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Muốn nâng cao chất lượng dân số, nhất là chất lượng dân số đối với người dân tộc thiểu số, trước hết phải giảm thiểu tảo hôn, đồng thời giảm tỷ suất sinh tự nhiên, đảm bảo mỗi cặp vợ chồng chỉ nên sinh đủ 2 con. Ngoài ra, cũng phải đẩy mạnh tuyên truyền người dân thực hiện khám sức khỏe trước khi kết hôn, tầm soát cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai và sau khi sinh để sớm phát hiện các dạng dị tật như tan máu bẩm sinh (Thalassemia). 5. Kết luận Qua việc đánh giá thực trạng tảo hôn của người dân tộc thiểu số ở huyện Chư Prông, phần nào đã cho thấ y, từ năm 2015 đế n năm 2018, mặ c dù tì nh trạ ng tả o hôn có phầ n giả m xuố ng nhưng mứ c độ tả o hôn vẫ n cò n cao. Tảo hôn có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào, không phân biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn hay vùng có điều kiện kinh tế, xã hội thuậ n lợi. Nhậ n thứ c củ a ngườ i dân tộ c thiể u số vẫ n cò n nhiề u hạ n chế và không thể tự thoá t ra khỏ i sự rà ng buộ c củ a nhữ ng hủ tụ c, quan niệ m lạ c hậ u, trá i ngượ c vớ i sự phá t triể n củ a mộ t xã hộ i văn minh nếu như không có sự tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hôn nhân gia đình, không có sự vào cuộc một cách quyết liệt của chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã hội tại địa phương. Do vậy, muốn giảm thiể u tì nh trạ ng tảo hôn và đi đế n chấ m dứ t vấn nạ n nà y cần có sự vào cuộc đồng bộ và kiên quyết từ phía chính quyền địa phương, gia đình - xã hội và nhà trường, trong đó: Về phía chính quyền địa phương: Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật cho người dân, nhất là người dân tộc thiểu số. Phải lấy phương châm “phòng còn hơn chống”, tăng cường nhận thức của người dân về pháp luật hơn là xử lý người dân vi phạm pháp luật. Về phía gia đình - xã hội: Cần xây dựng các khu dân cư văn hóa, hình thành các Câu lạc bộ “nói không với tảo hôn” phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư. Xây dựng các quy chuẩn văn hóa khu dân cư, coi đó là yêu cầu tất yếu mà mỗi người dân, mỗi gia đình phải thực hiện và làm theo. Về phía nhà trường: Trước hết cần làm tốt công tác phân luồng học sinh ngay từ bậc trung học cơ sở và sau đó là bậc trung học phổ thông. Tăng cường giáo dục pháp luật, rèn luyện đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, qua đó sẽ lan tỏa được mục tiêu giảm thiểu tảo hôn đến từng học sinh và phụ huynh cũng như người xung quanh./. Lời cám ơn: Bài viết được trích từ đề tài dự thi khoa học kỹ thuật cấp Quốc gia dành cho học sinh trung học khu vực phía Nam năm 2019. Tài liệu tham khảo [1]. Ban Dân tộc tỉnh Gia Lai (2018), Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh Gia Lai, Gia Lai. [2]. Quốc hội Việt Nam(2015), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và những văn bản hướng dẫn thực hành, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3]. Trung tâm Dân số - kế hoạch hóa gia đình huyện Chư Prông (2018), Tổng hợp số đối tượng 74 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019) tảo hôn và kết hôn cận huyết thống từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2018, Trung tâm Dân số - kế hoạch hóa gia đình huyện Chư Prông, Gia Lai. [4]. Trường THPT Pleime (2018), Báo cáo số liệu học sinh thôi học 2015-2018, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai, Gia Lai. [5]. Trường THPT Trần Phú (2018), Báo cáo số liệu học sinh thôi học 2015-2018, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai, Gia Lai. [6]. Ủy ban nhân dân huyện Chư Prông (2018), Tình hình tự tử và nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Chư Prông, UBND huyện Chư Prông, Gia Lai. ASSESSING IMMATURE MARRIAGE AMONG ETHNIC MINORITIES IN CHU PRONG DISTRICT, GIA LAI PROVINCE DURING THE 2015 -2018 PERIOD Summary Immature marriage has reduced the quality of human resources, directly affecting human health, physique and labor capacity. On the context of immature marriage and near-marital marriage among ethnic minorities in Chu Prong district during the 2015 – 2018 period, using the structured interview and document review, the research team designed a questionnaire and surveyed 349 couples of immature marriage residing in 12 villages within 6 communes with the highest number of immature marriages in the district (namely Ia Boong, Ia O, Ia Púch, Ia Vê, Ia Ga, Ia Pior). From the results of the fi eld survey, the research team analyzed data and identifi ed ethnic minority groups with high immature marriage in terms of race, gender, age and residence. At the same time, the team investigated the local people's perceptions of early marriage and the marriage-family law. Thereby, the team identifi ed the causes and proposed solutions to minimize immature marriage in Chu Prong district. Keywords: Immuture marriage, ethnic minorities, ChuProng district. Ngày nhận bài: 18/4/2019; Ngày nhận lại: 04/7/2019; Ngày duyệt đăng: 15/8/2019.
File đính kèm:
- danh_gia_thuc_trang_tao_hon_o_vung_dan_toc_thieu_so_huyen_ch.pdf