Đánh giá phơi nhiễm ngắn hạn cá nhân đối với hơi 131I trong quá trình sản xuất đồng vị phóng xạ
Đồng vị phóng xạ 131I là một trong
những đồng vị dùng nhiều trong chẩn đoán
và điều trị các bệnh về tuyến giáp [2,7]. Đồng
vị này thường được sản xuất từ việc chưng
cất khô sản phẩm chiếu xạ nơtron sử dụng
telua điôxit từ lò phản ứng hạt nhân [1, 7].
Khi chưng cất cũng như thao tác trên
dung dịch có chứa 131I, một lượng đáng kể
131I dạng hơi phát tán ra không khí xung
quanh và gây phơi nhiễm trong cho nhân
viên bức xạ [1-3, 7]. Riêng tại Viện Nghiên
cứu Hạt nhân Đà Lạt, hàng chục Ci sản
lượng đồng vị 131I được sản xuất hàng tháng
để cung cấp cho các cơ sở y học hạt nhân
trên toàn quốc [4].
Theo Cơ quan Năng lượng nguyên tử
quốc tế IAEA [7], trường hợp các nhân viên
bức xạ làm việc và thao tác trên các đồng vị
phóng xạ với hoạt độ lớn thì phải được đánh
giá phơi nhiễm cá nhân một cách thường qui.
Theo đó, phương pháp đánh giá thường qui
được lựa chọn dựa trên các điều kiện khả
dụng tại cơ sở. Các yếu tố cần xem xét khi
lựa chọn một chương trình quan trắc bao
gồm (i) sự khả dụng của
thiết bị, (ii) giá thành của phép phân tích và
(iii) độ nhạy của hệ đo hoặc độ chính xác
Dựa trên các điều kiện trên, nghiên
cứu này hướng đến việc định phơi nhiễm
trong do hít phải không khí có chứa 131I cho
các nhân viên. Trong đó có hai thành phần
cần xác định đồng thời đó là (i) nồng độ của
đồng vị quan tâm trong không khí và (ii) thời
gian phơi nhiễm của các nhân viên bức xạ [9,
10].
Mục đích của nghiên cứu này là đánh
giá phơi nhiễm cá nhân đối với 131I cho đối
tượng là các nhân viên bức xạ làm việc tại
Trung tâm Sản xuất Đồng vị phóng xạ, Viện
Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt. Các công cụ
chính được sử dụng bao gồm điện thoại, máy
lấy mẫu khí xách tay và hệ phổ kế gamma
HPGe.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá phơi nhiễm ngắn hạn cá nhân đối với hơi 131I trong quá trình sản xuất đồng vị phóng xạ
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 14 * 2017 21 ĐÁNH GIÁ PHƠI NHIỄM NGẮN HẠN CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HƠI 131I TRONG QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ Trần Xuân Hồi* Tóm tắt Bài báo hướng đến việc đánh giá lượng phơi nhiễm ngắn hạn đối với hơi 131I cho từng cá nhân tham gia sản xuất 131I bằng phương pháp chưng cất khô. Kết quả cho thấy lượng phơi nhiễm là khá thấp nhưng khác nhau đáng kể giữa các nhân viên. Ngoài ra, bài báo cũng đưa ra một số khuyến nghị hữu ích nhằm hạn chế nguy cơ nhiễm xạ cho các nhân viên. Từ khóa: Phơi nhiễm, I-131, sản xuất đồng vị phóng xạ. 1. Mở đầu Đồng vị phóng xạ 131I là một trong những đồng vị dùng nhiều trong chẩn đoán và điều trị các bệnh về tuyến giáp [2,7]. Đồng vị này thường được sản xuất từ việc chưng cất khô sản phẩm chiếu xạ nơtron sử dụng telua điôxit từ lò phản ứng hạt nhân [1, 7]. Khi chưng cất cũng như thao tác trên dung dịch có chứa 131I, một lượng đáng kể 131I dạng hơi phát tán ra không khí xung quanh và gây phơi nhiễm trong cho nhân viên bức xạ [1-3, 7]. Riêng tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, hàng chục Ci sản lượng đồng vị 131I được sản xuất hàng tháng để cung cấp cho các cơ sở y học hạt nhân trên toàn quốc [4]. Theo Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA [7], trường hợp các nhân viên bức xạ làm việc và thao tác trên các đồng vị phóng xạ với hoạt độ lớn thì phải được đánh giá phơi nhiễm cá nhân một cách thường qui. Theo đó, phương pháp đánh giá thường qui được lựa chọn dựa trên các điều kiện khả dụng tại cơ sở. Các yếu tố cần xem xét khi lựa chọn một chương trình quan trắc bao gồm (i) sự khả dụng của thiết bị, (ii) giá thành của phép phân tích và (iii) độ nhạy của hệ đo hoặc độ chính xác ____________________________ * ThS, Trường Đại học Phú Yên cần thiết [7]. Dựa trên các điều kiện trên, nghiên cứu này hướng đến việc định phơi nhiễm trong do hít phải không khí có chứa 131I cho các nhân viên. Trong đó có hai thành phần cần xác định đồng thời đó là (i) nồng độ của đồng vị quan tâm trong không khí và (ii) thời gian phơi nhiễm của các nhân viên bức xạ [9, 10]. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá phơi nhiễm cá nhân đối với 131I cho đối tượng là các nhân viên bức xạ làm việc tại Trung tâm Sản xuất Đồng vị phóng xạ, Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt. Các công cụ chính được sử dụng bao gồm điện thoại, máy lấy mẫu khí xách tay và hệ phổ kế gamma HPGe. 2. Thiết bị và phương pháp 2.1. Mô hình nghiên cứu và thiết bị Để đánh giá phơi nhiễm cá nhân do hít phải khí phóng xạ, trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng mô hình được tóm lược ở Hình 1 và các thiết bị được đưa ra trong Bảng 1. Từ mô hình này ta thấy có hai nhánh thực nghiệm chính đó là tính toán nồng độ phóng xạ của 131I và thống kê thời gian phơi nhiễm của các đối tượng quan tâm. Sau đó hai cơ sở dữ liệu này được khớp theo thời gian để đưa ra lượng phơi nhiễm ngắn hạn của các cá nhân. 22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN Hình 1. Mô hình tiến trình nghiên cứu đánh giá phơi nhiễm do hít thở Bảng 1. Thiết bị được sử dụng cho việc đánh giá ngắn hạn phơi nhiễm cá nhân Loại thiết bị Hãng Model Công dụng Đặc điểm Máy lấy mẫu khí Eberline RAS-1 Hút khí Loại: xách tay Lưu tốc: 0100 lít/phút Phin lọc HI-Q TC-12 Giữ iốt Loại: than hoạt tính Chuyên dụng cho bắt giữ iốt trong không khí Hệ phổ kế Canberra Đo mẫu khí Detector: CPVD30-30185 Hiệu suất tương đối 33,4% FWHM (1332,5 keV) = 1,73 keV Điện thoại Nokia X700, N8 Đo thời gian Hệ điều hành Symbian Anna/Belle 2.2. Khu vực nghiên cứu Khu vực sản xuất đồng vị 131I của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt có 3 phòng, bao gồm phòng 1 – chưng cất, phòng 2 – phân liều và phòng 3 – phá mẫu (Hình 2). Tại phòng 3, vì tần suất và thời gian có mặt của các nhân viên tại phòng này là tương đối nhỏ so với các phòng khác. Do đó, trong bài báo này không đề cập việc tính toán cho phòng này. Đặc điểm các phòng này là không có cửa sổ, hệ thống thông gió hoạt động liên tục, chúng được khép kín với hành lang và không bị ảnh hưởng bởi gió từ bên ngoài. Kích thước mỗi phòng là 6m dài 6m rộng 4m cao. Như vậy, theo các khuyến cáo của IAEA, điều kiện này có thể sử dụng máy lấy mẫu khí xách tay để theo dõi phơi nhiễm thường qui [7]. TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 14 * 2017 23 Hình 2. Sơ đồ khu vực sản xuất 131I và các vị trí lấy mẫu khí 2.3. Tính toán phơi nhiễm cá nhân Lượng phơi nhiễm ngắn hạn hàng ngày của các nhân viên do hít phải khí phóng xạ được tính dựa trên công thức (1) [9-11]. 1 1 J K ik jk ijk j k IE C t (1) Trong đó, IEik là lượng phơi nhiễm của đối tượng i vào ngày k (Bq.m-3.h); Cjk là nồng độ trung bình của 131I tại phòng j vào ngày k (Bq.m-3) và tijk là thời gian đối tượng i bị phơi nhiễm tại phòng j trong ngày k (h). Nồng độ của 131I trong không khí được tính dựa trên hoạt độ của các mẫu khí và lưu tốc của máy lấy mẫu khí. Chuẩn hiệu suất cho hệ đo đối với cấu hình phin lọc dựa trên đường chuẩn hiệu suất được xây dựng từ dung dịch Amersham đựng trong container có hình học tương tự. Thời gian phơi nhiễm hàng ngày của các đối tượng quan tâm tại các phòng sản xuất đồng vị 131I được ghi nhận với sự hỗ trợ của một phần mềm cài trên điện thoại. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Thời gian phơi nhiễm Số liệu ghi nhận từ điện thoại đặt tại các phòng quan tâm được chuyển đổi qua máy vi tính để phân tích số liệu. Kết quả thống kê thời gian mà các nhân viên bức xạ phơi nhiễm tại hai phòng được hiển thị trên Hình 3. Từ Hình 3 ta thấy rằng có sự khác biệt rõ rệt của thời gian tổng cộng trong 10 tháng giữa các nhân viên. Cụ thể, nhân viên W1 chủ yếu làm việc tại phòng 1 trong khi nhân viên W8 thì ít khi có mặt ở phòng 1. Nhân viên W2 và W5 có thời gian phơi nhiễm khá thấp so với các đối tượng còn lại. Mặt khác, thời gian phơi nhiễm trong từng đợt sản xuất (tháng) cũng khác nhau đáng kể trên cùng một đối tượng. Ví dụ, giá trị này của W1 ở tháng Tư gấp khoảng 4 lần so với tháng Hai. 24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN Hình 3. Biểu đồ biểu diễn thời gian phơi nhiễm của nhóm nhân viên 3.2. Nồng độ 131I trong không khí Mẫu không khí tại các phòng sản xuất được hút vào các thời điểm bất kì trong suốt quá trình sản xuất diễn ra. Trung bình khoảng 8-12 mẫu mỗi ngày trên một phòng, số lượng này tùy thuộc vào kíp sản xuất kết thúc sớm hay muộn. Các mẫu tại hai phòng được hút độc lập tại các vị trí được chỉ ra trong Hình 2. Phin lọc được đặt tại độ cao 1,5 m nhằm mục đích đánh giá nồng độ ở khu vực hít thở của nhân viên [7]. Như đã thể hiện trên Hình 2, nồng độ 131I trong phòng 1 cao hơn so với phòng 2. Đặc biệt, tại phòng 1, nồng độ 131I trung bình vào tháng Tám đạt trên 20.000 Bq.m-3 trong khi vào tháng Một chỉ đạt trên 200 Bq.m-3. Mặt khác, sản lượng 131I được sản xuất hàng tháng chênh lệch không quá nhiều. Do đó, đây là một đặc điểm cần quan tâm khảo sát sâu hơn nhằm giảm thiểu nguy cơ nhiễm xạ trong cho nhân viên bức xạ. 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 R1 R2 R1 R2 R1 R2 R1 R2 R1 R2 R1 R2 R1 R2 R1 R2 W1 W2 W3 W4 W5 W6 W7 W8 M in s Ri-room; Wi-Worker Oct Sep Aug Jul Jun May Apr Mar Feb Jan TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 14 * 2017 25 Jan Feb Mar Apr May Jun Jul Aug Sep Oct 100 1000 10000 100000 B q B q Room 1 Jan Feb Mar Apr May Jun Jul Aug Sep Oct 100 1000 10000 Room 2 Hình 4. Nồng độ phóng xạ trung bình của 131I và độ lệch chuẩn trong 10 tháng năm 2015 tại hai phòng sản xuất đồng vị 3.3. Lượng phơi nhiễm Các số liệu sau khi thu thập và thống kê như trên Hình 3 và Hình 4 được khớp theo thời gian để tính toán lượng phơi nhiễm cho từng cá nhân dựa theo công thức (1). Lượng phơi nhiễm tổng cộng đối với hơi 131I trong 10 tháng (từ tháng 01-10/2015) cho từng cá nhân là các nhân viên nam tham gia sản xuất đồng vị tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt được thể hiện trên Hình 5. Có thể dễ dàng nhận ra trên Hình 5 rằng, lượng phơi nhiễm cho nhóm tám nhân viên bức xạ được tách theo ba mức rõ rệt. Nhóm nhận liều thấp nhất bao gồm các nhân viên W2, W5 và W8. Trong khi đó người nhận một liều cao đáng kể nhất là W1 với lượng phơi nhiễm đạt trên 160 kBq.h.m-3, tương ứng một lượng thâm nhập là 2.0E+05 Bq. Giá trị này khá thấp so với giới hạn cho phép của Cơ quan An toàn bức xạ đưa ra là 2.0E+06 Bq [8]. Như vậy, từ kết quả này có thể rút ra một khuyến cáo rằng, đối tượng cần được ưu tiên theo dõi và hạn chế liều chiếu trong là W1; kế đến là W3, W4, W6 và W7. Các đối tượng còn lại nhận một liều chiếu trong khá thấp. Tuy nhiên, để có một kết luận cụ thể làm căn cứ đưa ra phương pháp theo dõi liều cá nhân thì phải tính toán liều chiếu trong hiệu dụng trong năm [5, 6]. Một điều cần quan tâm khác là lượng phơi nhiễm của các nhân viên trong tháng Tám là rất cao so với các tháng khác trong năm (Hình 5) mặc dù sản lượng 131I hàng tháng không thay đổi nhiều. Điều này xảy ra là do nồng độ 131I trong tháng này rất cao. Nguyên nhân có thể là do thiết bị vận hành lỗi hoặc do hành vi vận hành không đúng qui trình của một hoặc vài nhân viên khi thao tác. Tuy nhiên, việc tìm ra nguyên nhân gây ra nồng độ cao này không thuộc phạm vi nghiên cứu của bài báo. Như vậy, để việc hạn chế liều được thực hiện tốt thì cần phải có sự giám sát chặt chẽ dây chuyền sản xuất cũng như thói quen của các người tham gia sản xuất như khuyến cáo của IAEA [7]. 26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN Hình 5. Tổng lượng phơi nhiễm hơi 131I cho các cá nhân trong 10 tháng năm 2015 4. Kết luận Trong nghiên cứu này, tác giả đã thống kê thời gian phơi nhiễm cho 8 nhân viên bức xạ tham gia sản xuất đồng vị 131I. Đồng thời, sử dụng phin lọc chuyên dụng để lấy mẫu khí 131I và đánh giá lượng phơi nhiễm đối với hơi 131I cho từng cá nhân cụ thể. Đặc biệt, bài báo cũng đưa ra một số khuyến cáo hữu ích nhằm hạn chế nguy cơ nhiễm xạ cho các nhân viên như để việc hạn chế liều được thực hiện tốt thì cần phải có sự giám sát chặt chẽ dây chuyền sản xuất cũng như thói quen của những người tham gia sản xuất. Đồng thời, việc định liều thường qui từ nhiều phương pháp là hữu ích nhằm hỗ trợ kết quả lẫn nhau và tăng độ tin cậy. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa khảo sát đặc tính vật lý của 131I trong không khí, chưa chỉ ra nguyên nhân dẫn đến các bất thường về nồng độ 131I trong không khí. Đây cũng là hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài nằm tăng cường đảm bảo công tác an toàn tại các cơ sở hạt nhân TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Arino H, Gemmill W, Kramer H (1973). Production of high purity iodine-131 0.0E+00 2.0E+04 4.0E+04 6.0E+04 8.0E+04 1.0E+05 1.2E+05 1.4E+05 1.6E+05 1.8E+05 W1 W2 W3 W4 W5 W6 W7 W8 B q .h .m -3 Jan Feb Mar Apr May Jun Jul Aug Sep Oct 28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN radioisotope. Google Patents [2] Bitar A, Maghrabi M, Doubal AW (2013). Assessment of intake and internal dose from iodine-131 for exposed workers handling radiopharmaceutical products. Applied Radiation and Isotopes 82:370-375 [3] Carneiro LG, de Lucena EA, da Silva Sampaio C, Dantas ALA, Sousa WO, Santos MS, Dantas BM (2015). Internal dosimetry of nuclear medicine workers through the analysis of 131 I in aerosols. Applied Radiation and Isotopes 100:70-74 [4] Duong VD, Pham ND, Bui VC, Tho MP, Nguyen TT, Vo TCH (2014). Production of Radioisotopes and Radiopharmaceuticals at the Dalat Nuclear Research Reactor. Nuclear Science and Technology 4:46-56 [5] Henrichs K (2005). The Forthcoming ISO-Standard for the Monitoring of Workers. HEIR 2004:254 [6] Hickey E, Stoetzel G, Strom D, Cicotte G, Wiblin C, McGuire S (1993). Air sampling in the workplace. Nuclear Regulatory Commission, Washington, DC (United States). Div. of Regulatory Applications [7] Iiternational Atomic Energy Agancy - IAEA (1999). Assessment of Occupational Exposure Due to Intakes of Radionuclides, Safety Standards Series No. RS-G-1.2. IAEA Safety Guide, No. RS-G-1.2, Vienna, Austria, Vienna, Austria [8] International Commission on Radiological Protection - ICRP (1982). Limits for intakes of radionuclides by workers. Elsevier Health Sciences [9] Klepeis NE (2006). Modeling human exposure to air pollution. Human exposure analysis:445-470 [10] Ott WR (1982). Concepts of human exposure to air pollution. Environment International 7:179-196 [11] Steinle S, Reis S, Sabel CE (2013). Quantifying human exposure to air pollution— Moving from static monitoring to spatio-temporally resolved personal exposure assessment. Science of The Total Environment 443:184-193 Abstract Individual Short-Term Exposure Assessment To 131I Vapor during Radioisotope Production Process This paper aims at assessing the individual short-term exposure due to the inhaled 131I vapor during the radioisotope production process with dry distillation method. The results reveal that the individual exposure is safe in term of internal exposure and varies significantly among the workers. Moreover, the study presents some valuable suggestions in order to constrain the internal occupational doses. Keywords: Exposure, I-131, radioisotope production.
File đính kèm:
- danh_gia_phoi_nhiem_ngan_han_ca_nhan_doi_voi_hoi_131i_trong.pdf