Đánh giá chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing kết quả nghiên cứu nhóm sinh viên tốt nghiệp
Tóm tắt
Đánh giá chất lượng đào tạo là một trong những hoạt động quan trọng đối với một cơ sở đào tạo
đại học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Mục đích chính của nghiên cứu này nhằm
xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài
chính – Marketing dựa trên kết quả khảo sát 320 sinh viên tốt nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng
phần mềm SPSS 22.0 để xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng có bảy nhân tố với 25 tiêu chí được xác định và có ý nghĩa tác động đến sự hài lòng về chất
lượng đào tạo ngành Marketing, trong đó nhân tố Chương trình đào tạo có tác động mạnh nhất.
Kết quả khảo sát sẽ là cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại Khoa
Marketing.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing kết quả nghiên cứu nhóm sinh viên tốt nghiệp
t định số 65/2007/QĐ-BGDĐT liên quan đến các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học và được bổ sung theo thông tư số 37/2012/TT- BGDĐT ngày 30/10/2012 và được hợp nhất tại văn bản hợp nhất số 06/VBHN- BGDĐT ngày 04/03/2014 của Bộ giáo dục và Đào tạo. Trong những năm gần đây, trường Đại học Tài chính – Marketing nói chung và khoa Marketing nói riêng cũng đã từng bước áp dụng các mô hình đánh giá chất lượng đào tạo, điển hình như mô hình đánh giá chất lượng AUN (ASEAN University Network) và Kiểm định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Xuất phát từ thực tiễn đào tạo và nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo đối với khoa Marketing, nghiên cứu này được tiến hành với mục đích trọng tâm là đánh giá phản hồi của sinh viên tốt nghiệp về chất lượng đào tạo của Khoa. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu: (i) Xác định các nhân tố đánh giá chất lượng đào tạo của Khoa Marketing, (ii) Đo lường mức độ tác động của các nhân tố chất lượng đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên tốt nghiệp và (iii) Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo của khoa Marketing. 2. Tổng quan nghiên cứu, khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1 Khái niệm về chất lượng đào tạo Chất lượng luôn là vấn đề quan trong nhất của tất cả các trường đại học, và việc phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo đại học nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng chất lượng đào tạo vẫn là một khái niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo lường, và có nhiều cách hiểu khác nhau cũng như rất nhiều tranh luận xung quanh vấn đề này đã diễn ra tại các diễn đàn về chất lượng đào tạo. 38 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 Chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học theo định nghĩa của Harvey & Green (1993) được thể hiện ở năm khía cạnh: sự xuất sắc, sự hoàn hảo, sự phù hợp với mục tiêu, sự đáng giá với chi phí bỏ ra, và sự chuyển đổi về chất. Trong khi đó, tổ chức quốc tế về đảm bảo chất lượng giáo dục đại học (INQAHE) đưa ra một định nghĩa khác về chất lượng đào tạo, cụ thể: Chất lượng đào tạo đại học (hay giáo dục đại học) là tuân theo các chuẩn quy định, hoặc nếu chưa có bộ tiêu chí chuẩn quy định về chất lượng thì tổ chức giáo dục phải “đạt được mục tiêu đề ra”. Những chuẩn quy định hay mục tiêu đề ra được xây dựng bởi cơ quan quản lý giáo dục dựa trên các điều kiện kinh tế, xã hội đặc thù của địa phương. Chất lượng đào tạo cũng có thể hiểu là đạt được mục tiêu và đáp ứng mong đợi của các bên liên quan (Lê Thị Linh Giang, 2014). Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007) đã ban hành bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo ở trường đại học với tên gọi “Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học”. Trong đó, chất lượng giáo dục đại học được định nghĩa cụ thể như sau: “Chất lượng giáo dục ở trường đại học là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đại học của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và cả nước”. Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục tại Việt Nam đã đúc kết sáu quan điểm về chất lượng trong giáo dục đại học như sau: Thứ nhất, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng đầu vào, đây chính là trình độ của sinh viên được tuyển chọn vào trường. Thứ hai, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng đầu ra hay chính là sản phẩm của giáo dục đại học được thể hiện bằng mức độ hoàn thành công việc của sinh viên tốt nghiệp hay khả năng cung cấp các hoạt động đào tạo của trường đó. Thứ ba, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng giá trị gia tăng: “Giá trị gia tăng” được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ đi giá trị của “đầu vào”, kết quả thu được là “giá trị gia tăng” mà trường đại học đã đem lại cho sinh viên và được đánh giá là chất lượng giáo dục đại học. Thứ tư, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng giá trị học thuật: chủ yếu dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong từng trường trong quá trình thẩm định công nhận chất lượng đào tạo đại học. Điều này có nghĩa là trường đại học nào có đội ngũ giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín khoa học cao thì được xem là trường có chất lượng cao. Thứ năm, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng văn hóa tổ chức riêng: “Văn hoá tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình liên tục cải tiến chất lượng. Vì vậy một trường được đánh giá là có chất lượng khi nó có được “Văn hoá tổ chức riêng” với nét đặc trưng quan trọng là không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Cuối cùng, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng kiểm định: Quan điểm này xem trọng quá trình bên trong trường đại học và nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định. Nếu kiểm toán tài chính xem xét các tổ chức có duy trì chế độ sổ sách tài chính hợp lý không, thì kiểm định chất lượng 39 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 quan tâm xem các trường đại học có thu thập đủ thông tin phù hợp và những người ra quyết định có đủ thông tin cần thiết hay không, quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp lý và hiệu quả không. Dựa trên những khái niệm khác nhau về chất lượng đào tạo ở Việt Nam cũng như trên thế giới, có thể nhận thấy rằng đánh giá chất lượng đào tạo là hoạt động nhằm xác định lại việc thực hiện đào tạo có đáp ứng được mục tiêu đào tạo do cơ sở đào tạo đề ra hay không. Một trong các mục tiêu quan trọng của cơ sở giáo dục đại học là đáp ứng được nhu cầu và mọng đợi của người học về chất lượng đào tạo, vì thế nghiên cứu về phản hồi, đánh giá của người học là một hoạt động cần thiết của cơ sở đào tạo đại học. Khoa Marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing là một trong những khoa đang tham gia vào đánh giá chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN-QA), vì thế nghiên cứu về phản hồi của sinh viên tốt nghiệp về chất lượng đào tạo là một vấn đề cần thiết. Kết quả nghiên cứu vừa là minh chứng cho công tác kiểm định và là cơ sở để khoa Marketing có thể nâng cao chất lượng đào tạo trong thời gian tới. 2.2 Một số nghiên cứu về chất lượng đào tạo Các nghiên cứu liên quan đến chất lượng đào tạo tập trung vào các nhóm, thứ nhất là các nghiên cứu nhằm khái niệm hóa và xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo (Lê Thị Linh Giang, 2014; Phạm Lê Hồng Nhung và cộng sự, 2012). Hướng thứ hai, các nhà nghiên cứu đánh giá mối quan hệ giữa chất lượng đào tạo với các yếu tố khác ví dụ chất lượng đào tạo và sự hài lòng của học viên (Diamantis và Benos, 2007; Bùi Ngọc Ánh và Đào Thị Hồng Vân, 2013; Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu, 2013; Phan Thị Thanh Hằng, 2014; Trần Xuân Kiên, 2006) hay chất lương đào tạo và cảm nhận về chất lượng đào tạo (Clemenz, 2001; Huỳnh Trường Huy và Nguyễn Nhật Khiêm, 2012). Diamantis và Benos (2007) đã nghiên cứu về sự hài lòng của sinh viên Khoa Quốc tế và Châu Âu. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự hài lòng của sinh viên bị ảnh hưởng bởi cả 4 yếu tố: chương trình đào tạo, yếu tố hữu hình, hỗ trợ hành chính và hình ảnh của Khoa. Clemenz (2001) với đề tài “Đo lường cảm nhận về chất lượng dịch vụ trong đào tạo các nghiệp vụ khách sạn”, sử dụng mô hình SERQUAL. Kết quả nghiên cứu cho thấy được 9 nhóm nhân tố ảnh hưởng đế chất lượng đào tạo ngành du lịch, bao gồm: môi trường đào tạo, tổ chức đào tạo, sự đồng cảm, tính thực tế, sự tương tác, tính hữu hình, trách nhiệm, sự tin cậy và sự thoải mái. Nghiên cứu của Bùi Ngọc Ánh và Đào Thị Hồng Vân (2013) cho thấy thành phần chất lượng đào tạo tác động đến sự hài lòng của sinh viên, theo thứ tự từ cao xuống thấp, đó là: Chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, năng lực phục vụ và nhân tố giảng viên. Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu (2013) thực hiện đề tài “Đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên khối ngành Kinh tế đối với chất lượng đào tạo 40 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 của Khoa Kinh tế & Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Cần Thơ”. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra 2 nhóm có ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên, đó là: tác phong, năng lực của giảng viên và cơ sở vật chất trong đó, sự ảnh hưởng của nhóm tác phong, năng lực của giảng viên có ảnh hưởng mạnh hơn. Phan Thị Thanh Hằng (2014) với đề tài “Sự hài lòng của học sinh – sinh viên về chất lượng chương trình đào tạo tại trường Cao đẳng kinh tế đối ngoại” được thực hiện trên cơ sở mô hình chất lượng dịch vụ của Parasuraman & ctg (1998) và mô hình sự hài lòng của sinh viên theo Diamantis và Benos (2007). Kết quả đề tài cho thấy sự hài lòng của sinh viên về chất lượng chương trình đào tạo tại bị tác động nhiều nhất bởi nhóm giảng viên và chương trình đào tạo hơn là nhóm yếu tố cơ sở vật chất và các hoạt động hỗ trợ. Trong nghiên cứu về đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại trường đại học kinh tế và quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên, Trần Xuân Kiên (2006) đã khảo sát 260 sinh viên tại trường và sử dụng công cụ thang đo SERVQUAL, kết quả biến thể qua năm thành phần: (i) cơ sở vật chất, (ii) sự nhiệt tình của giảng viên, (iii) trình độ của đội ngũ giảng viên, (iv) khả năng thực hiện cam kết, và (v) sự quan tâm của nhà trường. Tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích nhân tố để sàng lọc và nhóm các nhân tố có tác động đến sự hài lòng về chất lượng đào tạo. Kết quả phân tích cho thấy rằng thành phần nhân tố về sự nhiệt tình của giảng viên đóng vai trò quan trọng nhất dẫn đến sự hài lòng của sinh viên. Qua quá trình nghiên cứu tài liệu, tổng hợp và đánh giá các đề tài nghiên cứu liên quan, nhóm nghiên cứu nhận xét thấy mặc dù có nhiều đề tài khác nhau sử dụng các nhóm nhân tố khác nhau nhưng hầu hết các thang đo chất lượng đào tạo đều có chung đặc điểm, đó là các nhân tố đều xoay quanh hoặc thể hiện được 5 nhân tố của thang đo chất lượng dịch vụ của Parasuraman và cộng sự (1988), bao gồm: hữu hình, đáp ứng, đảm bảo, tin cậy và đồng cảm. Các nhân tố này được điều chỉnh và đặt tên lại trong các nghiên cứu về chất lượng đào tạo, cũng như bổ sung thêm các nhân tố khác dựa trên các nghiên cứu trước đây. Từ cơ sở này, mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau bao gồm bảy nhân tố: Cơ sở vật chất, Sự đồng cảm, Sự tin cậy, Sự bảo đảm, Chương trình đào tạo, Kết quả mong đợi và nhân tố Giảng viên. 41 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất 2.3 Khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu Xây dựng thang đo Chất lượng dịch vụ nói chung và chất lượng đào tạo (giáo dục) nói riêng từ lâu đã trở thành chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đánh giá với nhiều phương pháp khác nhau. Điển hình nhất trong số đó là mô hình chất lượng dịch vụ do Parasuraman và cộng sự (1988) đề xuất, thường được biết đến với công cụ SERVQUAL gồm năm thành phần chính – tin cậy, đáp ứng, đảm bảo, đồng cảm, và phương tiện hữu hình. Một biến thể của SERVQUAL chính là công cụ đo lường chất lượng dịch vụ dựa trên cảm nhận của khách hàng SERVPERF được đề xuất bởi Cronin và Taylor (1992). Mô hình này cũng dựa trên năm thành phần chính của công cụ (Parasuraman và cộng sự, 1988). Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai công cụ đó là cách thức đo lường. Parasuman và cộng sự (1988) đo lường chất lượng dịch Sự đảm bảo Sự đồng cảm Cơ sở vật chất Sự hài lòng về chất lượng đào tạo của Khoa Marketing Sự tin cậy Chương trình đào tạo H1(+) H2(+) H4(+) H3(+) H7(+) Kết quả mong đợi Giảng viên H5(+) H6(+) 42 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018 vụ dựa vào sự khác biệt giữa cảm nhận và kỳ vọng, trong khi đó Cronin và Taylor (1992) đo lường chỉ dựa vào cảm nhận của đối tượng tham gia đánh giá. Cho đến nay, cả hai phương pháp trên có thể được sử dụng đồng thời và chưa có bằng chứng nào cho thấy phương pháp thứ nhất tối ưu hơn phương pháp thứ hai. Tuy nhiên, trong thực tế người tham gia đánh giá thường gặp khó khi phân biệt giữa cảm nhận và kỳ vọng. Điều này dẫn đến sự khác biệt giữa hai tiêu chí này dường như không đáng kể. Trong trường hợp như thế, công cụ SERVPERF có vẻ phù hợp hơn do đặc điểm đơn giản của nó. Vì vậy, công cụ SERVPERF sẽ được chọn và kế thừa các nghiên cứu trước về chất lượng đào tạo để tiến hành đánh giá chất lượng đào tạo đối với ngành Marketing. Thang đo sơ bộ sẽ được đưa vào thảo luận nhóm với các sinh viên tốt nghiệp để điều chỉnh các thang đo, làm cơ sở thiết kế bảng câu hỏi. Trong bảng câu hỏi, các thành phần thang đo thể hiện qua các phát biểu được hỏi với thang Likert với năm mức độ tương ứng 1: Rất không đồng ý đến 5: Rất đồng ý. Thang đo Sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo được kế thừa từ nghiên cứu của Phan Thị Thanh Hằng (2014) gồm 3 biến quan sát và sử dụng thang đo Likert (5 mức độ) để đặt câu hỏi. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu đánh giá của sinh viên tốt nghiệp về chất lượng đào tạo của khoa Marketing (ngành Marketing), trường Đại học Tài chính – Marketing được thực hiện thông qua hai giai đoạn: Nghiên cứu sơ bộ: Sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính với kỹ thuật thảo luận nhóm bao gồm 8 sinh viên tốt nghiệp từ hai chuyên ngành Quản trị marketing và Quản trị thương hiệu. Giai đoạn nghiên cứu này nhằm điều chỉnh và bổ sung biến quan sát cho thang đo chất lượng đào tạo theo quan điểm của cựu sinh viên. Nghiên cứu chính thức: Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với qui mô mẫu là 320, mẫu được chọn theo phương pháp thuận tiện, kỹ thuật thu thập dữ liệu thông qua bảng câu hỏi bằng cách phát bảng hỏi trực tiếp. Thời gian tiến hành khảo sát từ ngày 14/07 đến 21/07/2017 trong đợt sinh viên tập trung nhận bằng tốt nghiệp tại trường. Dữ liệu sau khi thu thập được nhập liệu, làm sạch và phân tích độ tin cậy của thang đo bằng phương pháp xác định hệ số Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA. Phân tích tương quan và hồi quy đa biến được sử dụng nhằm kiểm định các giả thuyết nghiên cứu và đánh giá mức độ tác động của các nhân tố độc lập đến biến phụ thuộc. Tiêu chuẩn chọn hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn hoặc bằng 0.6 (Slater, 1995), hệ số tương quan biến tổng phải đạt trên 0.3 (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2011). Phân tích nhân tố khám phá (EFA) phải thỏa điều kiện hệ số KMO: 0.5 ≤ KMO ≤ 1, với mức ý nghĩa kiểm định Barlett ≤ 0.05. Phương pháp trích nhân tố sử dụng là Principal Component và phép xoay là Varimax. Số lượng nhân tố sẽ nhận tại điểm dừng Eigen –value tối thiểu bằng 1, yêu cầu về tổng 43
File đính kèm:
- danh_gia_chat_luong_dao_tao_cua_khoa_marketing_truong_dai_ho.pdf