Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông

Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu Biển Đông thông qua việc lập bản đồ địa mạo tỷ lệ 1:250.000 theo nguyên tắc các bề mặt đồng nguồn gốc. Nghiên cứu cho thấy địa hình khu vực này trong các giai đoạn Pliocene sớm, Pliocene giữa và Pliocene muộn phản ánh rõ cấu trúc của vỏ trái đất bao gồm thềm lục địa, sườn lục địa, đáy biển sâu và đới tách giãn. Các đơn vị địa mạo trong các thời kỳ Pliocene có số lượng khác nhau bao gồm các đơn vị chính là địa hình lục địa cổ còn sót lại và địa hình đáy biển. Trong địa hình đáy biển gồm các bề mặt nằm ngang, bề mặt đồng bằng và bề mặt sườn dốc. Các đơn vị địa mạo trong thời kỳ Pliocene muộn đều mang tính kế thừa của các giai đoạn Pliocene sớm, Pliocene giữa. Tính kế thừa thể hiện rõ nhất ở các núi ngầm đỉnh phẳng, các núi địa lũy tồn tại suốt trong Pliocene. Vào thời kỳ Pliocene sớm và giữa, khối lục địa cổ còn chiếm vị trí nhất định ở góc Tây Bắc khu vực nghiên cứu. Sang đến Pliocene muộn, khối lục địa cổ lớn không còn tồn tại, khu vực bị chế ngự bởi chế độ biển. Như vậy, Pliocene sớm và giữa là thời kỳ biển bắt đầu xâm nhập vào thềm lục địa Việt Nam. Thời kỳ Pliocene muộn, khu vực nghiên cứu bị ngập sâu dưới đáy biển

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 1

Trang 1

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 2

Trang 2

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 3

Trang 3

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 4

Trang 4

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 5

Trang 5

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 6

Trang 6

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 7

Trang 7

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 8

Trang 8

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 9

Trang 9

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 900
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông

Đặc điểm địa mạo thời kỳ Pliocene khu vực Tây Nam trũng sâu biển Đông
a trong. Phía Đông đồng bằng tồn tại 1 trũng khép kín, bằng 1 yên ngựa ở độ sâu 1.500 m. Cũng từ yên ngựa này, 
kéo dài theo phương Đông Bắc - Tây Nam trên độ sâu 600 1 rãnh xói ngầm xuất hiện, đổ về phía Đông. Phía Đông 
m. Đồng bằng được giới hạn ở phía Đông bằng đường Nam của bề mặt tồn tại 1 trường núi lửa cổ bao phủ với 
diềm sụt bậc xuống sườn lục địa ở độ sâu 700 m. Có thể diện tích 55 km2. Bề mặt phía Đông nằm ở độ sâu khoảng 
coi bề mặt này là thềm ngoài của thời kỳ Pliocene muộn. 1.500 m chạy theo phương kinh tuyến. Bề mặt là 1 vòm 
 (4) Bề mặt bán địa hào trên những độ sâu khác nhau: phun trào cổ. Bao quanh vòm phun trào là các đường 
Khác với giai đoạn trước, vào thời kỳ Pliocene muộn, hoạt đẳng sâu khép kín xuống đến 2.050 m, tạo thành 1 đồi 
động đứt gãy đã trở nên yếu hơn nên các bề mặt bán địa ngầm. Phía Nam khu vực này, tồn tại bề mặt nhỏ, bề mặt 
hào đã trở nên ít hơn. Có thể ghi nhận các bề mặt đó như đỉnh hình tròn nằm ở độ sâu 1.700 m. Ở phía Tây Nam 
sau: Tại khu vực trung tâm phía Nam vùng nghiên cứu tồn bản đồ, tồn tại 1 bề mặt nằm ngang hình oval chạy theo 
tại 2 đứt gãy gần nhau. Đứt gãy thứ nhất nằm ở phía Nam phương Đông Bắc - Tây Nam. Bề mặt đỉnh nằm ở độ sâu 
theo phương Đông Bắc - Tây Nam. Biên độ dịch chuyển 1.750 m. Nằm chếch về phía Tây Nam của bề mặt này là bề 
của đứt gãy đạt đến 400 - 700 m. Đứt gãy thứ 2 nằm ở phía mặt ở độ sâu 1.700 - 1.750 m của 1 khối phun trào cổ. Các 
Bắc, cũng theo phương Đông Bắc - Tây Nam. Biên độ dịch đường đẳng sâu từ 1.800 - 1.900 m khép kín tạo thành 1 
chuyển của đứt gãy khoảng 400 - 500 m. Phía Đông Nam núi ngầm theo phương Đông Bắc - Tây Nam. Khu vực góc 
khu vực nghiên cứu tồn tại 4 bề mặt địa hào nhỏ. Đứt gãy Đông Nam của tờ bản đồ cũng gặp các bề mặt nằm ngang 
chạy theo phương Đông Bắc - Tây Nam. Các đường đẳng ở độ sâu 1.500 m. 
sâu vuông góc với đứt gãy làm cho địa hình bị sụt bậc từ (7) Bề mặt nằm ngang - mài mòn, độ sâu trên 2.500 m: 
Tây Nam lên Đông Bắc. Ở khu vực nghiên cứu, các bề mặt nằm ngang mài mòn 
 (5) Bề mặt nằm ngang mài mòn, độ sâu 900 - 1.000 m: ở độ sâu trên 2.500 m không nhiều. Bề mặt diện tích lớn 
 2
Các bề mặt này là những bề mặt ngang, lượn sóng nổi lên nhất khoảng 200 km , nằm ở trung tâm vùng nghiên cứu. 
ở dưới đáy biển, phân bố ở phần trung tâm và góc Đông Bề mặt đỉnh hình tròn, nằm ở độ sâu 2.800 m. Các đường 
Nam của tờ bản đồ. Ở phần trung tâm ghi nhận 3 bề mặt đẳng sâu bao quanh bề mặt đến 3.100 m tạo nên 1 núi 
nằm ngang nổi lên cao trên các dãy núi ngầm đáy biển. Bề ngầm trên ranh giới giữa sườn núi ngầm Tây Bắc với trũng 
mặt thứ 1 nằm ở phía Tây khu vực nghiên cứu và chạy theo sâu đại dương. Một bề mặt nằm ngang mài mòn nữa nằm 
 DẦU KHÍ - SỐ 5/2021 19
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
trên độ sâu 2.500 m gặp ở phía Tây Nam của vùng. Bề mặt phân dị ở phía Bắc với các dãy núi ngầm ở độ sâu từ 1.800 
đỉnh hình oval, nằm trên độ sâu 2.450 m. - 2.000 m. Đồng bằng thấp dần từ Tây sang Đông. Lòng 
 chảo trung tâm có địa hình trũng được giới hạn bởi các 
 (8) Bề mặt phun trào cổ trên các độ sâu khác nhau: Bề 
 trũng khép kín ở độ sâu 1.950 m, 2.150 m. Trũng lòng chảo 
mặt phân bố rải rác ở khu vực nghiên cứu. Ở góc Đông 
 được định hướng theo phương Đông Bắc - Tây Nam.
Nam, có 3 khối phun trào lớn, trong đó 2 khối hình tròn và 
1 khối hình oval theo phương Đông Bắc - Tây Nam. Diện (13) Bề mặt đồng bằng phân dị chia cắt mạnh của các 
tích mỗi khối khoảng vài chục km2. Phần phía Bắc của bản đồi núi ngầm, độ sâu 2.500 - 3.000 m: Đơn vị địa hình này 
đồ cũng gặp 2 khối phun trào cổ, nằm trong đơn vị địa phân bố ở phía Đông Nam vùng nghiên cứu. Đây là đơn 
hình số 5 (bề mặt nằm ngang mài mòn, độ sâu 1.500 - vị địa hình bị chia cắt mạnh mẽ nhất bởi các đứt gãy tạo 
1.700 m). Góc Tây Nam cũng gặp 1 khối phun trào cổ nằm thành những bề mặt bán địa hào ở độ sâu 2.000 m, 2.500 
phủ lên bề mặt 1.850 m. m và thậm chí xuống tới 3.150 m. Ở đây ngoài các bề mặt 
 nhỏ nhô lên cao đến độ sâu 2.000 m, 2.500 - 2.600 m còn 
 (9) Bề mặt phun trào trẻ trên các độ sâu khác nhau: Bề 
 gặp các trũng sâu nhỏ đến 2.800 - 2.900 m. Địa hình có xu 
mặt phun trào trẻ trên độ sâu khác nhau phân bố thành 
 thế phát triển theo phương Đông Bắc - Tây Nam. Tại đây 
2 khối có diện tích lớn. Một khối nằm ở trung tâm đới 
 cũng gặp nhiều khối basalt cổ. 
tách giãn có diện tích hơn 900 km2. Một khối phân bố ở 
rìa Tây Bắc đới tách giãn, nơi chuyển tiếp từ núi ngầm Tây (14) Bề mặt đồng bằng phân dị tích tụ, trũng sâu tách 
Bắc xuống đồng bằng tách giãn, có diện tích khoảng hơn giãn đại dương, độ sâu 3.500 - 4.300 m: Bề mặt đồng bằng 
1.000 km2. này chiếm diện tích lớn (khoảng 8.500 km2) ở phía Đông 
 vùng nghiên cứu. Đồng bằng chạy theo phương Đông 
 + Các bề mặt đồng bằng
 Bắc - Tây Nam. Ranh giới phía Tây Bắc tiếp giáp với dãy núi 
 (10) Bề mặt đồng bằng lượn sóng - tích tụ, độ sâu ngầm phía Đông Bắc bằng 1 đường diềm ở độ sâu 3.500 
1.400 - 2.000 m: Bề mặt phân bố ở phía Tây khu vực nghiên m, sụt bậc từ sườn dốc chuyển sang địa hình bằng phẳng. 
cứu với diện tích khoảng 6.583 km2. Đồng bằng chạy theo Ranh giới phía Đông Nam được giới hạn bằng đường đẳng 
phương Đông Bắc - Tây Nam. Ranh giới phía Đông Bắc là 1 sâu 3.500 m, chuyển tiếp từ sườn dốc xuống bề mặt đồng 
đường diềm với sườn lục địa ở độ sâu 1.600 - 1.650 m. Phía bằng. Địa hình thấp dần về phía Đông Bắc. Các đường 
Tây Nam, đồng bằng tiếp xúc với bề mặt nằm ngang mài đẳng sâu từ 3.600 - 4.300 m chạy gần như song song và 
mòn ở độ sâu 900 m. Đồng bằng có chiều sâu tăng dần từ gần nhau làm cho địa hình trở nên dốc và sâu hơn. Đường 
Tây Nam lên Đông Bắc. Những đường đẳng sâu lượn sóng đẳng sâu 4.300 m tạo nên 1 lòng chảo sâu đến 4.450 m. Ở 
đã tạo nên tính lượn sóng của đồng bằng. giữa đáy nổi lên 1 khối núi lửa trẻ, núi lửa Đình Trung.
 (11) Bề mặt đồng bằng phân dị của các đồi núi ngầm (15) Bề mặt đồng bằng phân bậc tích tụ đuôi trũng 
và các trũng nhỏ, độ sâu 1.750 - 2.700 m: Đơn vị địa hình sâu tách giãn, độ sâu 2.500 - 3.300 m: Bề mặt này là đuôi 
này phân bố ở phía Bắc vùng nghiên cứu, phát triển theo trũng sâu tách giãn, địa hình ở đây khác hẳn với địa hình 
phương kinh tuyến. Các đường đẳng sâu sau khi khép của đới tách giãn. Các đường đẳng sâu từ 2.500 - 3.300 m 
kín tạo nên đồi núi ngầm ở độ sâu khoảng 1.900 m thì song song với nhau và cắt ngang qua, gần như vuông góc 
phát triển thành các đường đẳng sâu kéo dài, liên hệ với với đới tách giãn, làm cho địa hình phân bậc. Vì lý do đó, 
nhau tạo thành những sườn ngầm từ 1.900 - 2.700 m. Các nhóm tác giả đã tách thành 1 đơn vị địa mạo riêng. Hình 
sườn ngầm được chia cắt bởi các rãnh xâm thực, có độ thái các đường đẳng sâu tạo thành sườn tương đối thoải 
dốc khoảng 5o. Ranh giới phía Tây là đường diềm ở độ sâu (độ dốc < 1o) làm cho địa hình dốc theo phương từ Tây 
1.800 - 2.000 m, tiếp giáp với đồng bằng lượn sóng tích Nam lên Đông Bắc. Góc Đông Nam của đới tách giãn tồn 
tụ. Ranh giới phía Đông tiếp giáp với sườn dốc của các tại đứt gãy chạy theo phương Đông Bắc - Tây Nam tạo nên 
dãy núi ngầm ở độ sâu khoảng 2.700 m và 1 khối basalt địa hình bán địa hào ở độ sâu 2.500 - 2.800 m, 2.900m. Bên 
trẻ. Trên bề mặt địa hình tồn tại những trường basalt cổ, cạnh các đứt gãy là khối phun trào cổ. 
những mảnh sót lục địa cổ.
 + Các bề mặt nằm nghiêng
 (12) Bề mặt đồng bằng lòng chảo tích tụ, độ sâu 1.500 
 (16) Bề mặt sườn dốc kiến tạo, sườn lục địa, độ sâu 700 
- 2.200 m: Bề mặt này nằm ở góc Tây Nam khu vực ng-
 - 1.800 m: Đơn vị địa hình này phân bố ở phía Tây khu vực 
hiên cứu với diện tích khoảng 5.400 km2. Bề mặt được giới 
 nghiên cứu, chuyển tiếp từ thềm lục địa ở độ sâu 700 m 
hạn bởi đường diềm bao quanh sườn lục địa, đồng bằng 
 xuống đáy biển ở độ sâu 1.500 m. Sườn dốc kiến tạo chạy 
20 DẦU KHÍ - SỐ 5/2021 
 PETROVIETNAM
theo phương Đông Bắc - Tây Nam. Ở khu vực Tây Nam, đẳng sâu 2.350 m và kết thúc ở đường đẳng sâu 3.500 m. 
sườn dốc kiến tạo được mở rộng đến độ sâu 1.800 m. Ranh Độ dốc của sườn đạt 14o. Bề mặt sườn bị chia cắt bởi các 
giới phía Tây của sườn dốc kiến tạo là 1 đường diềm nằm ở rãnh ngầm mang vật liệu di chuyển về phía Tây Bắc, đổ về 
độ sâu từ 400 - 700 m bao quanh thềm lục địa chuyển tiếp trũng sâu tách giãn.
từ bề mặt tương đối bằng phẳng của thềm xuống sườn 
 4. Kết luận
dốc. Ranh giới phía Đông là 1 đường diềm nằm ở độ sâu 
từ 1.400 - 1.650 m bao quanh sườn lục địa. Chiều rộng của Kết quả nghiên cứu về đặc điểm địa mạo thời kỳ Plio-
bề mặt sườn dốc khoảng 14 - 30 km, độ dốc trung bình cene khu vực Tây Nam trũng sâu Biển Đông có thể rút ra 
 o
của sườn khoảng 2 - 4 . Địa hình bề mặt sườn phức tạp, kết luận sau:
xuất hiện nhiều canyon, khe rãnh xâm thực mài mòn chảy 
 Địa hình khu vực trũng sâu Tây Nam Biển Đông 
từ thềm lục địa cắt qua sườn. Điều này làm cho quá trình - 
 trong các giai đoạn Pliocene sớm, Pliocene giữa và Pliocene 
động lực ngoại sinh xảy ra ở trên sườn khá mạnh mẽ. Trên 
 muộn phản ánh rõ cấu trúc của vỏ trái đất bao gồm thềm 
bề mặt sườn dốc, 1 số nơi tồn tại những bậc địa hình nằm 
 lục địa, sườn lục địa, đáy biển sâu và đới tách giãn.
ngang, bằng phẳng ở độ sâu 900 m.
 Các đơn vị địa mạo trong các thời kỳ Pliocene có số 
 (17) Bề mặt sườn dốc mài mòn của các dãy núi ngầm - 
 lượng khác nhau bao gồm các đơn vị chính là địa hình lục 
Tây Bắc, độ sâu từ 2.100 m đến trên 3.000 m: Bề mặt chiếm 
 địa cổ còn sót lại và địa hình đáy biển. Trong địa hình đáy 
diện tích lớn (7.539 km2) của trung tâm vùng nghiên cứu, 
 biển gồm các bề mặt nằm ngang, các bề mặt đồng bằng 
có độ sâu từ 2.100 m đến trên 3.000 m. Có thể chia sườn 
 và các bề mặt sườn dốc.
dốc thành những đoạn sau đây: Đoạn phía Bắc, sườn có 
độ dốc nhỏ nhất (khoảng ~ 1o), các đường đẳng sâu từ - Các đơn vị địa mạo trong thời kỳ Pliocene muộn 
3.050 - 4.000 m song song với nhau theo phương kinh đều mang tính kế thừa của các giai đoạn Pliocene sớm, 
tuyến; từ độ sâu 3.300 m trở xuống, các đường đẳng sâu Pliocene giữa. Tính kế thừa thể hiện rõ rệt nhất ở các 
đan dày hơn, làm cho độ dốc lớn hơn. Đoạn trung tâm, núi ngầm đỉnh phẳng, các núi địa lũy tồn tại suốt trong 
sau khi vượt qua khối phun trào, các đường đẳng sâu từ Pliocene.
2.000 m xuống 3.550 m đan dày làm cho sườn trở nên dốc 
 - Vào thời kỳ Pliocene sớm và giữa, khối lục địa cổ 
nhất (độ dốc 10o). Các rãnh xâm thực chia cắt vuông góc 
 còn chiếm vị trí nhất định ở góc Tây Bắc khu vực nghiên 
với sườn làm cho địa hình càng phức tạp. Sau đó đoạn 
 cứu. Sang đến Pliocene muộn địa hình lục địa cổ chỉ còn là 
sườn được mở rộng nhất, với chiều rộng khoảng ~ 60 km 
 dạng các mảnh sót lục địa cổ ở phía Đông Nam. Như vậy, 
từ đường đẳng sâu 2.200 m đến 3.200 m. Tại khoảng độ 
 thời kỳ Pliocene muộn, khu vực nghiên cứu bị ngập sâu 
sâu 2.800 - 2.850 m phát hiện khoảng không gian tương 
 dưới đáy biển.
đối bằng phẳng, 2 đường đẳng sâu cách xa nhau, tạo nên 
trũng sâu cục bộ. Đoạn phía Nam bề mặt sườn dốc được Lời cảm ơn
tách làm 2 nhánh chạy theo phương Đông Bắc - Tây Nam. 
Nhánh phía Tây là sườn dốc của bề mặt đồng bằng lượn Nghiên cứu này được hoàn thành với sự hỗ trợ của 
sóng tích tụ độ sâu 1.400 - 2.000 m và bề mặt nghiêng vận các tác giả tham gia Đề tài cấp Nhà nước KC.09.30/16-20. 
chuyển, tích tụ thềm lục địa với các đường đẳng sâu từ Tài liệu tham khảo
2.200 m xuống 2.600 - 2.800 m, độ dốc đạt ~ 10o. Nhánh 
phía Đông là sườn dốc giữa bề mặt bán địa hào với bề mặt [1] Nguyễn Hiệp và nnk, Địa chất và tài nguyên Dầu 
đồng bằng phân bậc từ độ sâu 2.400 m đến độ sâu 2.850 khí Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2007.
 o
m, độc dốc khoảng 7 . [2] Lê Đức An, “Đặc điểm về địa mạo đáy biển quần 
 (18) Bề mặt sườn dốc mài mòn của các dãy núi ngầm đảo Trường Sa và các vùng kế cận”, Tuyển tập các công trình 
Đông Nam, độ sâu 2.300 - 3.500 m: Bề mặt nằm ở phía nghiên cứu về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 
Đông Nam vùng nghiên cứu là đơn vị địa hình chuyển vùng quần đảo Trường Sa. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ 
tiếp từ bề mặt địa hình phân dị chia cắt mạnh của các thuật, 1998.
đồi núi ngầm từ độ sâu 3.000 m đến độ sâu 3.500 m của [3] Nguyễn Thế Tiệp, "Nghiên cứu cấu trúc địa chất 
trũng sâu tách giãn. Bề mặt sườn chạy theo phương vùng biển nước sâu (> 200 m nước) Nam Việt Nam là cơ sở 
Đông Bắc - Tây Nam mở rộng về phía Đông Bắc và thu khoa học để tìm kiếm Tài nguyên khoáng sản liên quan". Đề 
hẹp về phía Tây Nam. Sườn dốc được bắt đầu từ đường tài cấp Nhà nước KC09-18/06-10, 2010.
 DẦU KHÍ - SỐ 5/2021 21
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
 [4] Trịnh Xuân Cường và nnk, "Tiềm năng dầu khí bể [6] Đặng Văn Bát, "Xây dựng bản đồ địa mạo vùng 
Tư Chính Vũng Mây", thuộc Dự án “Đánh giá tiềm năng dầu Đông Nam thềm lục địa Việt Nam, phục vụ chiến lược phát 
khí trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”, Viện Dầu khí triển kinh tế và xây dựng công trình biển, tỷ lệ 1:250.000". Đề 
Việt Nam, 2013. tài nhánh KC09-09-07, 2004.
 [5] Nguyễn Anh Đức và nnk, "Tiềm năng dầu khí bể [7] Vũ Văn Phái, Đặng Văn Bào, Bản đồ địa mạo biển 
Phú Khánh", thuộc Dự án “Đánh giá tiềm năng dầu khí nông ven bờ 0 - 30 m nước Việt Nam tỷ lệ 1:500.000, 2001.
trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”, Viện Dầu khí Việt 
 [8] Lê Đức An, Đặc điểm về địa mạo khu vực Trường Sa 
Nam, 2013.
 và Tư Chính - Vũng Mây tỷ lệ 1:250.000, 2004.
PLIOCENE MORPHOLOGICAL CHARACTERISTICS OF THE EAST SEA’S 
SOUTHWESTERN DEEP DEPRESSION 
Dang Van Bat1, Tong Duy Cuong2, Ngo Thi Kim Chi3
1Vietnam Union of Geological Sciences
2Vietnam Petroleum Institute
3Hanoi University of Mining and Geology
Email: ngothikimchi@humg.edu.vn
Summary
 Pliocene morphological characteristics of the East Sea’s southwestern deep depression at the scale of 1:250,000 based on co-originated 
surfaces are presented in this paper. The study shows that the morphological characteristics of the study area in the Early, Middle and Late 
Pliocene reflect a clear structure of the Earth’s crust and consist of continental shelf, continental slope, deep sea floor and depression zone. 
The main morphological units in the Pliocene include the paleo-morphological continent and morphological sea floor. The morphological 
sea floor consists of horizontal surfaces, plane surfaces and slope surfaces. The morphological units in the Late Pliocene inherit features of the 
Early and Middle ones. Their inheritance is most visible on the guyots and the horst mountains existing throughout the Pliocene period. In 
the Early and Middle Pliocene, the paleo-continent mass distributed in a limited area in the north-west corner of the study area. In the Late 
Pliocene, the paleo-continental mass disappeared and the whole study area was dominated by the sea. Hence, the Early and Middle Pliocene 
were the period of transgression into the Vietnam continent. In the Late Pliocene, the study area was submerged in the deep sea. 
Key words: Morphology, Pliocene, East Sea’s south-western deep depression.
22 DẦU KHÍ - SỐ 5/2021 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_dia_mao_thoi_ky_pliocene_khu_vuc_tay_nam_trung_sau.pdf