Cuộc tranh luận tư tưởng Triết học ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
Vào thập niên 30 của thế kỷ XX, ở Việt Nam, đã diễn ra cuộc tranh luận tư
tưởng triết học xung quanh những nội dung về thế giới quan, phép biện chứng
duy vật, chủ nghĩa duy vật lịch sử, vũ trụ quan của Khổng Tử và về nhân sinh
quan. Tác giả khảo cứu các tư liệu sách, báo xuất bản trong thời kỳ đó, hệ thống
hóa theo từng nội dung, đồng thời, đánh giá ý nghĩa và nêu lên một số nhận xét
về cuộc tranh luận.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cuộc tranh luận tư tưởng Triết học ở Việt Nam đầu thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cuộc tranh luận tư tưởng Triết học ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
mục tiêu cống hiến, mục tiêu sáng tác của giới văn nghệ sĩ, trí thức tập trung thành hai phái, một bên gồm Hoài Thanh, Thiếu Sơn cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, và phía bên kia Hải Triều cùng các chiến hữu chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh diễn ra hết sức sôi nổi trong một thời gian dài (1935-1939). Vấn đề trung tâm mà cuộc tranh luận đặt ra là văn học nghệ thuật nên đi theo khuynh hướng nào: tả thực hay lãng mạn, đi vào đời sống hay thoát ly hiện thực, chịu sự chi phối hay đứng ngoài chính trị, mang tính giai cấp hay phi giai cấp... Song, ẩn giấu dưới cái bề mặt các vấn đề văn nghệ đó rõ ràng là cuộc đấu tranh về nhân sinh quan trong tầng lớp trí thức - giới tinh hoa của xã hội thời bấy giờ, những người đang “đứng giữa hai dòng nước”: “dòng cách mạng” với quan điểm duy vật biện chứng và “dòng phản cách mạng” với quan điểm duy tâm là chủ đạo. Tranh luận được mở màn năm 1935 bằng bài viết Hai cái quan niệm về văn học của Thiếu Sơn đăng trên Tiểu thuyết Thứ bảy. Thiếu Sơn cho rằng quan điểm văn học lấy việc phục vụ luân lý, đạo đức xã hội làm mục đích là một quan điểm cũ, cần phải loại bỏ. Ông đề cao loại văn chương sáng tác (thơ ca, tiểu thuyết) “lấy nghệ thuật làm gốc” sẽ còn mãi với thời gian. Tiếp tục, ông còn cho đăng hai bài nữa là Nghệ thuật với đời người và Văn học bình dân, nhấn mạnh tính độc lập, khách quan, vô tư, không lệ thuộc giai cấp, chính trị nào của văn chương, đồng thời, đi sâu vào thế giới chủ quan của nghệ sĩ trong khi tìm tòi cái đẹp. Ông khẳng định: “văn chương không có đảng phái và là của mỹ thuật chứ không phải là việc của chánh trị” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, tập 2, 2002: 540), và văn sĩ trước hết phải biết “giải phóng cho linh hồn, phải thoát ly được với hết thảy những thành kiến về luân lý, về xã hội, về chính trị, về tôn giáo mà chỉ biết có nghệ thuật mà thôi” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, tập 2, 2002: 542). Hoài Thanh cũng tán đồng với quan điểm ấy khi cho rằng: nhà văn “miễn làm thế nào tạo nên cái đẹp, trao mỹ cảm cho người xem thì thôi” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, tập 2, 2002: 579). TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 7 Cùng với Hoài Thanh, còn có Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Phan Văn Dật ra sức bảo vệ cho tính độc lập của văn chương, đẩy cái tôi của nhà văn lên tới mức cực đoan, thoát ly hiện thực trở thành một đấng tạo hóa, sáng tạo ra một thế giới cao đẹp, vượt lên trên những xấu xa, thấp hèn của cuộc sống đương thời. Rõ ràng, “sự bất lực trước thực tế xã hội trong một tâm thế bi quan, chán chường đã khiến phái „nghệ thuật vị nghệ thuật‟ trở nên phiến diện, cực đoan, chui sâu vào ngõ cụt của cái tôi chủ quan, của hình thức thuần túy” (Viện Văn học, 1996: 62). Luôn bám sát hoạt động của phái nghệ thuật vị nghệ thuật, Hải Triều và các cộng sự liên tục có những bài bút chiến sắc bén vừa phê phán những quan điểm chưa đúng đắn, đồng thời, tích cực tuyên truyền, cổ vũ nhân sinh quan cách mạng, tinh thần dấn thân vào đấu tranh cải tạo xã hội cho giới văn nghệ sĩ. Khi Thiếu Sơn “lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho nghệ thuật” thì Hải Triều bác lại - “cái phát nguyên của nghệ thuật là ở trong xã hội mà cái cứu cánh của nó cũng ở trong xã hội” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, Tập 2, 2002: 554), Hải Vân tiếp lời: “nghệ thuật phải theo tình hình xã hội mà tiến hóa” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, Tập 2, 2002: 712). Khi nhóm nghệ thuật vị nghệ thuật níu giữ nhà văn trong cái “tháp ngà nghệ thuật”, cố giữ một cái nhìn và một “địa thế trung lập” thì văn sĩ của nhóm nghệ thuật vị nhân sinh hướng cái nhìn của mình về phía đời sống người lao động bị áp bức, bóc lột và xung kích dùng văn chương làm vũ khí đấu tranh cho lẽ phải và tiến bộ xã hội. Cao Văn Chánh tự nhận mình có cái “thiên chức trọng đại: Đánh thức quần chúng và kích thích tranh đấu” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, tập 2, 2002: 722). Có thể nhận thấy, cách nhìn cuộc sống, quan điểm sống và sáng tác trong giới văn nghệ sĩ đã có sự mâu thuẫn khá sâu sắc. Hai nhóm nghệ thuật vị nhân sinh và nghệ thuật vị nghệ thuật giằng co bảo vệ quan điểm của nhóm đến cuối năm 1939. Mặc dù bấy giờ chưa thực sự ngã ngũ nhưng phần vì đôi bên đã dần hiểu nhau hơn, phần vì tình hình thế giới chuẩn bị bước vào cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai với những diễn biến chính trị hết sức phức tạp. 3. Ý NGHĨA CỦA CUỘC TRANH LUẬN Có thể nhận thấy, tuy cuộc tranh luận diễn ra trên diện rộng, nhiều thành phần tham gia, ở nhiều góc độ, khía cạnh và nội dung khác nhau. Song, trung tâm chính là cuộc đấu tranh giữa một bên có xu hướng cách mạng lấy tinh thần triết học duy vật biện chứng làm chủ đạo, và phía bên kia chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng triết học duy tâm. Xu hướng thắng thế của tư tưởng triết học duy vật biện chứng đã từng bước đẩy lùi những quan điểm duy tâm, lạc hậu; khơi thông những bế tắc, cản trở trong nhận thức; góp phần giải phóng cho giới văn nghệ sĩ, trí thức và một bộ NGÔ BẰNG LINH – CUỘC TRANH LUẬN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC 8 phận nhân dân thoát ra khỏi sự thống trị của hệ tư tưởng cũ, hướng họ theo phương pháp tư duy mới, cách mạng và tiến bộ. Quá trình tranh luận đã giúp nâng cao trình độ tư duy của đội ngũ trí thức cũng như một bộ phận quần chúng nhân dân thời kỳ đó. Thông qua các cuộc tranh luận, nhiều tài liệu có nội dung mácxít cũng đã được tăng cường truyền bá vào Việt Nam, khuyếch trương quan điểm duy vật mácxít, gây thanh thế cho Đảng Cộng sản. Cuốn Chủ nghĩa mácxít phổ thông của Hải Triều xuất bản năm 1938 trở thành cuốn sách “gối đầu giường” của rất nhiều thanh niên thời đó; và cho đến tận sau năm 1945, sách còn được tái bản nhiều lần. Cuộc tranh luận cũng đã tạo tiền đề, nền móng để một số đường lối, đặc biệt là đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này kế thừa, phát triển (rõ nhất ở Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943). Trong cuộc tranh luận, đội ngũ văn nghệ sĩ có xu hướng mácxít đã thu hút được lực lượng thống nhất, trong đó Hải Triều là cây bút sắc bén đứng đầu, phái nghệ thuật vị nghệ thuật khá đơn độc (Phan Khôi bị Hải Triều lôi vào cuộc tranh luận), lực lượng thiếu tổ chức, không thống nhất. Đặc biệt, nhiều phương pháp tranh luận rất đặc sắc của Hải Triều cần được tiếp tục nghiên cứu, như phương pháp lôi đối phương vào tranh luận (với Thiếu Sơn), phương châm bám sát và kiên quyết, không buông tha (với Phan Khôi), nghệ thuật “PR gây thanh thế” (Trần Đình Sử, 2014) khi công khai chỉ trích cụ Phan Bội Châu - bậc tiền bối với bài Cụ Sào Nam giải thích chữ văn học thế là sai lắm... 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CUỘC TRANH LUẬN THAY LỜI KẾT Nếu như đặc điểm nổi bật trong truyền thống của triết học phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng không có các cuộc đấu tranh mang tính phe phái, trực diện như ở phương Tây, thì ở giai đoạn này, chúng ta thấy cuộc tranh luận đã có những bài viết với thái độ, lời lẽ rất dứt khoát, thẳng thắn, tính chất “bút chiến” khá mạnh mẽ. Hải Triều và các cộng sự của ông đã tự vạch một lằn ranh chia đôi chiến tuyến với những đối thủ của mình. Chính do được tiếp cận với những nội dung triết học phương Tây, nên phương pháp tư duy của những trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng đã đổi khác khá nhiều so với tư duy Nho học cũ, mang những nét mới: tự tin, quyết liệt theo tinh thần “thầy là quý, nhưng chân lý còn quý hơn thầy”. Và cũng chính vì vậy có thể nói, cuộc tranh luận tư tưởng triết học thời kỳ này có sự pha trộn giữa những đặc trưng phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, một đặc điểm khá nổi bật của cuộc tranh luận tư tưởng triết học đó là tính chất học thuật còn khá thấp. Điều này có thể được lý giải bởi hầu hết văn sĩ, trí thức tham gia cuộc tranh luận đều không có ai là nhà nghiên cứu triết học, nghiên cứu lý luận thực TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 9 thụ; mặt khác những khái niệm, phạm trù của triết học phương Tây mới được du nhập còn khá lạ lẫm so với truyền thống tư tưởng triết học Việt Nam. Cuộc tranh luận gắn liền (thậm chí mang nặng) với ý đồ chính trị và các mục tiêu cá nhân chứ không thuần túy là tranh luận khoa học. Một số bài viết của các tác giả, nhất là ở phía những người có xu hướng theo quan điểm duy vật biện chứng, ngoài mục đích phê phán đối phương còn nhắm tới mục đích tuyên truyền, khuếch trương lý luận, tư tưởng mới. Việc các phạm trù, khái niệm triết học ngày càng được làm rõ và có sự phát triển chỉ như một hệ quả phái sinh tất yếu từ cuộc tranh luận mà thôi. Tất cả những người tham gia cuộc tranh luận đều cố gắng viện dẫn mọi triết gia, mọi nhà tư tưởng cả Đông và Tây để biện giải cho vấn đề của mình, bởi vậy, không tránh khỏi kiến giải còn ngây ngô, mà như chính người đương thời cũng phải nhận xét: “sao các ông nói triết lý mà không nói đến tuyệt đỉnh cho?” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, tập 1, 2002: 965), và rằng “dao cạo (tức lập luận, lý lẽ - Tác giả chú giải) của hai ông, chúng tôi chưa tin là sắc” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, tập 1, 2002: 968). Việc vạch lằn ranh phân đôi chiến tuyến cũng như trình độ học thuật triết học của đôi bên còn chưa cao dẫn đến một hệ quả (đồng thời cũng là một đặc điểm của cuộc tranh luận), đó là cả hai phía đều có nhiều “đòn thừa” (Phong Lê, 1999: 143), nhiều lúc xem xét một cách tuyệt đối hóa một mặt nào đó, thái độ cực đoan, thiếu đi cái nhìn toàn diện khi đánh giá phía bên kia. Thành ra, như Trần Đình Sử (2014) nhận xét: “sự phê phán có thể đúng về phương diện lý thuyết và ý thức hệ, mà không thật đúng người, đúng việc ở trong nước”. Trong cuộc tranh luận, nhiều lúc diễn ra tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt”, do cả nguyên nhân nhận thức và nguyên nhân ý thức. Ngoài việc chính bản thân một số người tham gia cuộc tranh luận chưa thực sự hiểu thấu đáo, sâu sắc về những nội dung triết học được đề cập, còn có cả việc cố tình hiểu sai, diễn đạt sai vấn đề mà bên kia trình bày để tiện bề phê phán! Ngô Văn Triện đã phải lớn tiếng nói với Phan Khôi: “Ông không đồng ý, thì cứ chỗ tôi nói mà phản đối đi, cớ gì lại làm cho sai chệch luận đề? Hay ông cần làm sai như thế, để mới có chỗ mà nói?” (Nguyễn Ngọc Thiện, tập 1, 2002: 1039). Còn Hoài Thanh cũng phải “nổi khùng” với những “mớ lý thuyết” (chữ của Hoài Thanh) mà đối thủ đổ thừa cho mình. Ông viết bài Chung quanh cuộc biện luận về nghệ thuật: Một lời vu cáo đê hèn cho biết: “Những người biện luận cùng tôi họ cũng biết rằng không có thế. Nhưng () họ cần phải tặng tôi lời vu khống ấy để tranh phần thắng lợi một cách dễ dàng” (dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện, tập 2, 2002: 639). Chính vì vậy, cần phải nắm vững quan điểm lịch sử - cụ thể khi nghiên cứu, xem xét cuộc tranh luận, cần có sự cảm thông nhất NGÔ BẰNG LINH – CUỘC TRANH LUẬN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC 10 định đối với những hạn chế về tư tưởng do tính thời đại của các văn nghệ sĩ, trí thức thời kỳ đó. Cuộc tranh luận tư tưởng triết học diễn ra ở Việt Nam đầu thế kỷ XX như một tất yếu khách quan, trên cơ sở hiện thực xã hội và những nền tảng tư tưởng nhất định. Đầu thập niên 1930, phong trào yêu nước lớn mạnh với nhiều lực lượng, nhiều đảng phái khác nhau, song, lực lượng tiến bộ theo xu hướng mácxít ngày càng chiếm ưu thế. Chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào tầng lớp trí thức, thanh niên, công nhân và nông dân từ nhiều nguồn và dưới nhiều hình thức khác nhau, ngày càng được kết hợp chặt chẽ hơn với chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, tạo ra sức sống, khí thế mới, lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân. Trong khi đó, thực dân, đế quốc một mặt gia tăng đàn áp các phong trào yêu nước, mặt khác, trên lĩnh vực tư tưởng, chúng đẩy mạnh những hoạt động văn hóa, văn nghệ nô dịch, ru ngủ, xoa dịu tinh thần, cổ súy cho chủ nghĩa duy tâm đủ mọi màu sắc. Điều này khiến cho một bộ phận quần chúng và không ít văn sĩ, trí thức rơi vào khủng hoảng, bi quan, không xác định được phương hướng chính trị. Và như vậy, cuộc tranh luận tư tưởng triết học là một phần nội dung, nhưng đồng thời, xét ở khía cạnh chung nhất, chỉ là một biểu hiện của cuộc đấu tranh giữa lực lượng mácxít - lực lượng cách mạng và phản cách mạng ở Việt Nam trong giai đoạn lịch sử đó. Tuy cuộc tranh luận chưa phân thắng bại, nhưng lực lượng theo khuynh hướng triết học duy vật biện chứng ngày càng chiếm ưu thế như một chỉ dấu cho thấy phong trào cách mạng theo đường lối của Đảng Cộng sản sẽ còn tiếp tục phát triển để đi đến thắng lợi. Và thực tiễn lịch sử đã chứng minh điều đó. CHÚ THÍCH (1) Bộ sách dày hơn 2.000 trang do Nguyễn Ngọc Thiện sưu tầm, biên soạn lại từ các sách, báo đã xuất bản giai đoạn đầu thế kỷ XX về nhiều vấn đề khác nhau. (2) Nhận xét về bài viết này, nhà sử học Trần Huy Liệu (1983: 14) đánh giá rất nghiêm khắc: “Cái quan niệm của Phan Khôi cho là nước ta không có phong kiến chẳng những ngu dốt về văn hóa mà còn phản động về chính trị. Thật thế, nếu nước ta đã không có giai cấp phong kiến, không có chế độ phong kiến thì một trong những nhiệm vụ cách mạng của chúng ta đề ra là đánh đổ phong kiến, theo quan niệm Phan Khôi cũng như đấm vào không khí”. Trường Lưu (1996: 107) thì có thái độ bao dung hơn: “không vì thế mà bảo Phan Khôi là loại „tay sai giấu mặt‟ của kẻ thù như có người đã nói. Chúng ta nên quy về phương pháp nhận thức và bệnh ấu trĩ của một giai đoạn có nhiều mặt tranh tối tranh sáng, hơn là suy luận đến lập trường „phản cách mạng‟ một cách khiên cưỡng và hoàn toàn sai sự thật. Dù Phan Khôi có muốn canh tân đến đâu, vẫn bị cái chất Nho gia tiềm ẩn trong người lôi kéo”. Chúng tôi nghiêng về cách đánh giá của Trường Lưu. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (272) 2021 11 TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Nguyễn Ngọc Thiện. 2002. Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX – Tập 1, 2. Hà Nội: Nxb. Lao động. 2. Phong Lê. 1999. “Phác thảo sinh hoạt tư tưởng và học thuật Việt Nam thời kỳ 1930- 1945”, trong Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học. Hà Nội: Nxb. Văn học, tr. 140-171. 3. Trần Đình Sử. 2014. “Nhìn lại Hải Triều và cuộc tranh luận nghệ thuật năm 1936- 1939”, cuoc-tranh-luan-nghe-thuat-nam-1936-1939-o-Viet-Nam.html, truy cập ngày 01/2/2021. 4. Trần Huy Liệu. 1983. “Nhớ Hải Triều”, trong Về văn học nghệ thuật. Hà Nội: Nxb. Văn học, tr. 9-24. 5. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. 2000. Tổng tập văn học Việt Nam – Tập 37. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 6. Trường Lưu. 1996. “Hải Triều và hệ ý thức mới văn hóa dân tộc”, trong Hải Triều - Nhà lý luận tiên phong. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 102-113. 7. Viện Văn học. 1996. Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935-1939. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
File đính kèm:
- cuoc_tranh_luan_tu_tuong_triet_hoc_o_viet_nam_dau_the_ky_xx.pdf