Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những yêu cầu đặt ra trong đào tạo ở các trường cao đẳng hiện nay
1. Mở đầu
Các trường cao đẳng (TCĐ) ở nước ta là những cơ sở
đào tạo giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong đào tạo
“nguồn nhân lực (NNL) có kiến thức, kĩ năng và trách
nhiệm nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo
đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kĩ thuật công nghệ của thị
trường lao động trong nước và quốc tế” [1]. Đặc biệt,
trong bối cảnh hiện nay, để nâng cao chất lượng đào tạo,
đòi hỏi các nhà trường cần phải nhận thức đúng đắn về
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) và những
yêu cầu đặt ra trong đào tạo, từ đó làm cơ sở để có những
hành động, bước đi phù hợp nhằm đào tạo được NNL
đáp ứng tốt với yêu cầu của thực tiễn; phù hợp với mục
tiêu, yêu cầu đào tạo và đặc điểm, điều kiện cụ thể của
từng nhà trường [2].
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những yêu cầu đặt ra trong đào tạo ở các trường cao đẳng hiện nay
khoảng cách về tri thức, khả năng sáng tạo giữa giáo dục đại học với thực tiễn làm việc của con người. Trong khi đó, ở nước ta ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp có quy mô, có tiềm lực công nghệ, NNL và tài chính rất lớn. Những doanh nghiệp này đã nắm bắt được nhu cầu NNL mà mình đang cần; lợi thế ở tuyến đầu trong cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống; họ được trải nghiệm quý giá những yếu tố cần thiết mà các TCĐ, thậm chí các trường đại học lớn, có uy tín trong nước không có... từ đó bằng những kinh nghiệm, điều kiện, khả năng của mình họ trực tiếp đào tạo và trực tiếp sử dụng NNL mà họ đào tạo ra hoặc cung cấp NNL cho các doanh nghiệp có nhu cầu NNL tương đồng. Bên cạnh đó, từ thực tiễn cho thấy, sự kết nối giữa các TCĐ với thị trường lao động, doanh nghiệp trong đào tạo còn nhiều hạn chế; cơ cấu các ngành đào tạo về cơ bản tự phát, chưa có định hướng rõ nét; tập trung theo xu hướng học để bảo đảm cuộc sống hiện tại mà chưa chú ý đúng mức đến tiềm năng, kì vọng cá nhân, xu hướng phát triển của thời đại và yêu cầu của đất nước... Những điều này đặt ra cho các TCĐ nước ta trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 phải đối mặt với sự cạnh tranh mới với các cơ sở giáo dục đại học khác. Để đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và đứng vững trước sự cạnh tranh này, đòi hỏi các trường phải thường xuyên cải cách, đổi mới toàn diện. Trong đó, cần tập trung đổi mới công tác quản lí đào tạo theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình quản lí, coi trọng quản lí chất lượng. Bên cạnh đó, các trường cần phải coi trọng phát triển NNL, nhất là phát triển đội ngũ giảng viên. Đảm bảo cho đội ngũ giảng viên luôn có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, được chuẩn hóa về trình độ đào tạo và có kiến thức, kĩ năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ, tin học để ứng dụng vào trong nghiên cứu, giảng dạy và hợp tác quốc tế... 2.2.3. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao cho các trường cao đẳng Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 hiện nay, những công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng Internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học... đã khẳng định rõ nét mối quan hệ giữa các công nghệ; vai trò và sự tác động của các công nghệ đó tới đời sống xã hội. Trong khi đó, các TCĐ là những cơ sở giáo dục trực tiếp đào tạo NNL thực hành, sử dụng các công nghệ đó. Điều này làm cho các TCĐ bị tác động mạnh mẽ và toàn diện; danh mục các lĩnh vực ngành, nghề và mục tiêu đào tạo từng ngành nghề sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Trong khi đó, trước bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đã làm cho sự liên kết giữa các lĩnh vực lí - sinh; cơ - điện tử - sinh ngày càng chặt chẽ. Điều này kéo theo hàng loạt nghề cũ sẽ mất đi, thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp, trung bình và nhóm lao động có trình độ cao. Trong đó đòi hỏi nhóm lao động có trình độ cao ngày càng được trọng dụng, còn nhóm lao động có trình độ trung bình, thấp từng bước bị đe dọa và thải loại. Từ những vấn đề trên đã tạo ra cho các TCĐ có nhu cầu đào tạo NNL có chất lượng ngày càng cao hơn so với trước đây. Bên cạnh mục tiêu đào tạo con người về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, các trường phải hướng tới mục tiêu đào tạo con người được trang bị những kiến thức hiện đại phù hợp với thực tiễn, kĩ năng sáng tạo mới phục vụ cho nền kinh tế trước bối cảnh cuộc CMCN 4.0. Nghĩa là phải đào tạo con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kĩ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỉ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường lao động trong nước và quốc tế. 2.2.4. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra yêu cầu các trường cao đẳng thay đổi mọi yếu tố của quá trình đào tạo Sự tác động của cuộc CMCN 4.0 đã đặt ra yêu cầu ngày càng cao về chất lượng NNL. Để đáp ứng được điều đó, các TCĐ từng bước phải thay đổi mọi yếu tố của quá trình đào tạo, nhất là trong đổi mới công tác tuyển sinh đào tạo, thực hiện đào tạo và đảm bảo “đầu ra” cho sinh viên. Để giải quyết được vấn đề này, trong công tác tuyển sinh đào tạo đòi hỏi các trường cần phải chú trọng nâng cao chất lượng “đầu vào”; thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 15-19 18 các quy trình trong tuyển sinh; tuyệt đối không vì chạy theo số lượng đơn thuần mà bỏ qua chất lượng. Trong thực hiện đào tạo, phải xác định việc đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo là vấn đề mang tính cốt lõi. Chương trình, nội dung đào tạo phải linh hoạt, phù hợp với từng ngành, nghề, từng lĩnh vực, trình độ đào tạo và có sự tích hợp cao; phản ánh rõ nét những vấn đề mà thực tiễn đang cần, đáp ứng chuẩn đầu ra của nghề nghiệp được đào tạo và có sự liên thông giữa các nghề. Các phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo truyền thống trước đây cần được đổi mới triệt để bằng những phương pháp, hình thức đào tạo mới theo hướng ứng dụng triệt để thành tựu công nghệ thông tin, cụ thể như: Xây dựng thư viện điện tử để giảng viên, sinh viên có thể truy cập nghiên cứu tài liệu ở mọi lúc mọi nơi; mở rộng các hình thức đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giáo viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng; giảng viên ứng dụng công nghệ thông tin vào trong thực hành giảng dạy để sinh viên dễ dàng tiếp thu kiến thức, phát huy tính tích cực trong học tập... Bên cạnh đó, các trường cần phải thực hiện tăng cường đầu tư các trang thiết bị, phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại; thực hiện xây dựng hệ thống đào tạo trực tuyến; xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa, hệ thống thiết bị ảo mô phỏng... Trong đảm bảo “đầu ra” cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, các trường phải đổi mới tư duy theo hướng tạo điều kiện tối đa cho sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp. Đây được coi là vấn đề khó khăn, phức tạp trong bối cảnh cơ chế, chính sách của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa thực sự phát triển; điều kiện và năng lực của các TCĐ còn chưa đáp ứng được yêu cầu... Tuy nhiên, để thực hiện có hiệu quả vấn đề này, các trường cần phải xây dựng mối quan hệ, liên kết chặt chẽ và có cơ chế chính sách rõ ràng trong hợp tác tuyển dụng NNL với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh phù hợp với các ngành, nghề mà mình đào tạo trên từng địa bàn, từ đó tạo điều kiện thuật lợi nhất cho sinh viên sau khi tốt nghiệp làm việc ở các cơ sở này. Mặt khác, trong bối cảnh tính tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học hiện nay ngày càng được tăng cường và mở rộng đòi hỏi các trường phải nhạy bén, linh hoạt, biết tận dụng mọi nguồn lực chất lượng cao mà mình hiện có như hệ thống cơ sở vật chất, NNL chất lượng cao để tiến hành nghiên cứu khoa học, sản xuất, chế tạo các sản phẩm phù hợp với năng lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở đó định hướng và tạo điều kiện cho sinh viên sau khi tốt nghiệp trực tiếp được làm việc ngay ở nhà trường. 2.2.5. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra yêu cầu cần phải đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách trong đào tạo ở các trường cao đẳng Cuộc CMCN 4.0 đã tác động mạnh mẽ và làm thay đổi toàn diện hệ thống giáo dục. Điều này đặt ra yêu cầu Nhà nước, các cơ quan quản lí giáo dục cần phải đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách giáo dục nói chung, đào tạo ở các TCĐ nói riêng. Thực hiện vấn đề này một mặt giúp cho các trường có cơ sở hành lang pháp lí phù hợp để phát huy khả năng chủ động, sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo NNL mà cuộc CMCN 4.0 đặt ra; phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Mặt khác, nó góp phần nâng cao năng lực, uy tín của nền giáo dục nước nhà. Thực tiễn hiện nay cho thấy, nhiều cơ chế, chính sách trong đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học nói chung, ở các TCĐ nói riêng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể như: thiếu tính đồng bộ, chồng chéo, không còn phù hợp với thực tiễn và đặc điểm của các nhà trường; chưa huy động hết được các nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng đào tạo... Thậm chí, trước xu hướng biến động mau lẹ của thực tiễn đào tạo trong bối cảnh cuộc cách mạng, nhưng các cơ quan quản lí giáo dục chậm ban hành hoặc chưa ban hành các cơ chế, chính sách nhằm điều khiển, quản lí các hoạt động đào tạo... Điều này khẳng định việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách trong đào tạo ở các TCĐ đang là yêu cầu cấp thiết hiện nay [6], [7], [8]. Để khắc phục những rào cản, vướng mắc này, trong thời gian tới các cơ chế, chính sách trong đào tạo ở các TCĐ cần phải được đổi mới, hoàn thiện theo hướng tiếp tục bổ sung hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cơ chế, chính sách quy định về tự chủ đại học, quyền và trách nhiệm của các TCĐ khi thực hiện tự chủ, chính sách đầu tư phát triển các nhà trường. Sớm hoàn thiện và ban hành văn bản quy định cơ chế tự chủ của các TCĐ, trong đó nghiên cứu đề xuất đồng bộ các giải pháp tự chủ về đào tạo, nghiên cứu khoa học, tự chủ về tổ chức, bộ máy nhân sự, tự chủ về tài chính để thúc đẩy phát triển các nhà trường. Thực hiện nghiên cứu xây dựng và ban hành kịp thời hệ thống định mức kinh tế kĩ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng đối với các TCĐ làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế tính giá dịch vụ đào tạo. Từ đó, xây dựng và ban hành cơ chế đặt hàng của Nhà nước đối với các cơ sở đào tạo theo năng lực, chất lượng đào tạo của đơn vị mà không có sự phân biệt loại hình trường. Bên cạnh đó, cần tập trung đổi mới cơ chế, chính sách trong đầu tư ngân sách nhà nước đối với các TCĐ theo hướng giảm dần chi ngân sách cho bộ máy và hoạt động thường xuyên của các trường, tiến tới các trường tự bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên. Xây dựng cơ chế cho phép cơ sở đào tạo được tự chủ quyết định mức thu học phí tương xứng với chất lượng dịch vụ đào tạo cung cấp và xã hội thừa nhận. Ngoài ra, cho phép các đơn vị tự chủ VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 15-19 19 được huy động các nguồn lực từ xã hội thông qua vay tín dụng trong nước và nước ngoài, để bổ sung nguồn vốn cho phát triển GD-ĐT, xây dựng cơ sở vật chất... 3. Kết luận Từ những vấn đề trên, có thể khẳng định, cuộc CMCN 4.0 ra đời là xu hướng tất yếu của thời đại. Nó đặt ra cho các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta nói chung, các TCĐ nói riêng phải vận động không ngừng. Theo đó, các nhà trường muốn nâng cao được chất lượng đào tạo nhằm đáp ứng thiết thực với nhu cầu của NNL mà thị trường lao động đang cần trong bối cảnh này thì cần phải tranh thủ mọi tiềm năng vốn có của mình; biết khai thác tối ưu những giá trị mà cuộc cách mạng đem lại, nhất là những thành tựu về lĩnh vực công nghệ thông tin, số hóa vào trong đào tạo; từng bước đưa những kiến thức, yêu cầu mà xu hướng của cuộc cách mạng đang hiện hữu để đưa vào trong chương trình, nội dung đào tạo... thì mới đảm bảo cho các nhà trường tồn tại và ngày càng phát triển, đáp ứng tốt với nhu cầu của thực tiễn đặt ra. Tài liệu tham khảo [1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [3] Nguyễn Hồng Minh (2017). Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Tạp chí Lao động và Xã hội, số tháng 2/2017. [4] Nguyễn Viết Thảo (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạp chí Lí luận chính trị, số 5/2017. [5] Phan Chí Thành (2018). Cách mạng công nghiệp 4.0 - Xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến. Tạp chí Giáo dục, số 421, tr 43-46; 19. [6] Thủ tướng Chính phủ (2012). Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012). [7] Phạm Ngọc Trang (2018). Cách mạng công nghiệp 4.0 - Thực tiễn và thách thức đặt ra đối với các trường đại học và đội ngũ giảng viên trẻ. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, kì 2 tháng 5, tr 90-93. [8] Nguyễn Thị Thanh Tùng - Ngô Văn Tuần (2018). Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí Giáo dục, số 426, tr 1-4. MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ... (Tiếp theo trang 14) 3. Kết luận Thực tế cho thấy, không có biện pháp nào là “vạn năng” mà thông thường, để giải quyết một nhiệm vụ, một vấn đề cụ thể, phải vận dụng, phối hợp nhiều biện pháp. Trong các biện pháp nêu trên, biện pháp 1 có ý nghĩa định hướng, đóng vai trò nền tảng cho việc thực hiện các biện pháp khác vì chỉ có nhận thức đúng thì mới có hành động đúng; biện pháp 2 có tính hạt nhân, đóng vai trò then chốt, quyết định đến chất lượng HĐDH; các biện pháp 3, 4, 5 có vai trò quan trọng, tạo điều kiện, hỗ trợ HĐDH, để các nhà quản lí phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lí HĐDH theo định hướng PTNL HS trong bối cảnh hiện nay. Tài liệu tham khảo [1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [2] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). [3] Ban Chấp hành Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh (2015). Nghị quyết đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X nhiệm kì 2015 -2020. [4] Trần Trung Dũng (2016). Quản lí hoạt động dạy học ở trường trung học phổ thông theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Luận án tiến sĩ Khoa học Giáo dục, Trường Đại học Vinh. [5] Đỗ Thị Thanh Thuỷ (chủ biên) - Nguyễn Thành Vinh - Hà Thế Truyền - Nguyễn Thị Tuyết Hạnh (2017). Quản lí hoạt động dạy học trong trường phổ thông. NXB Giáo dục Việt Nam. [6] Hoàng Anh Tuấn (2017). Quản lí hoạt động dạy học của các trường trung học cơ sở huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ. Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 76 (137) - tháng 7/2017, tr 113-115. [7] Phạm Thị Mai Loan (2016). Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trung học cơ sở tại thành phố Hải Phòng theo tiếp cận phát triển năng lực người học. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 5, tr 168-172; 167.
File đính kèm:
- cuoc_cach_mang_cong_nghiep_4_0_va_nhung_yeu_cau_dat_ra_trong.pdf