Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

CPTPP đã có hiệu ực tại Việt Nam và xuất khẩu (XK) thủy sản được dự

báo à một trong những ĩnh vực được hưởng ợi khá ớn từ những cam kết về cắt giảm thuế

quan và những cam kết về mua sắm công, ogistic. Tuy nhiên, nhiều thách thức cũng đặt ra

đối với ngành thủy sản để tiếp cận thị trường các nước thành viên CPTPP. Đó à việc đáp

ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cao hơn, quy định về xuất xứ hàng hóa, ao động, môi trường,

phát triển bền vững . Vì vậy, để vượt qua thách thức, tận d ng cơ hội XK sang các nước

thành viên CPTPP, Việt Nam cần có các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, các Doanh nghiệp

(DN) và người nuôi trồng, đánh bắt thủy sản

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 1

Trang 1

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 2

Trang 2

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 3

Trang 3

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 4

Trang 4

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 5

Trang 5

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 6

Trang 6

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 7

Trang 7

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 8

Trang 8

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 9

Trang 9

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 4740
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
i sản phẩm thường xuyên, với số lượng lớn đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng, nhà bán 
l có thể nhận được mức giá cung cấp được chiết khấu; hoặc cuộc cạnh tranh giành quyền 
cung cấp giữa các nhà chế biến – xuất khẩu cũng dẫn đến kết quả tương tự. Hai yếu tố kép 
này giúp nhà bán l có thể hạ giá bán sản phẩm mang nhãn hiệu của họ xuống thấp hơn so với 
các nhà cung cấp khác, có sản phẩm bày bán trong hệ thống của nhà bán l . 
Với CPTPP, rào cản về thuế quan và các rào cản khác để thâm nhập mắt xích phân 
phối tới người tiêu dùng cuối cùng giảm, DN thủy sản của Việt Nam có thể tận dụng cơ hội 
và tạo nhãn hiệu riêng để phát triển các kênh bán l , điều này sẽ giúp phát triển thương hiệu 
thủy sản VN và duy trì vị thế trong tương lai. Điều này được thực hiện thông qua việc mở 
rộng quy mô kinh doanh của các nhà sản xuất (thông qua tái đầu tư mở rộng, mua bán – 
sát nhập, hoặc thâu tóm các nhà sản xuất khác); mạng lƣới kinh doanh toàn cầu (tích cực 
tiến sâu vào thị trường tiêu thụ nội địa, bằng cách đàm phán cung cấp sản phẩm cho các nhà 
bán l , thay vì xuất khẩu đến các đại lý xuất nhập khẩu, bán buôn); tăng cƣờng tính liên 
kết dọc (quản trị chi phí vốn, thức ăn chăn nuôi, con giống, liên kết với người nuôi trồng) 
và gia tăng giá trị sản phẩm. 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự cạnh tranh ngày càng gia tăng cần có giải pháp kết 
nối các doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi, cập nhật cơ hội, thách thức từ xung đột thương 
mại toàn cầu, các dịch vụ hỗ trợ như bảo hiểm, kiểm định hàng hóa, logistics, thông tin doanh 
nghiệp CPTPP thúc đẩy tạo các mối quan hệ FTA mới và thiết lập mạng lưới mới, bao gồm 
chuỗi cung ứng giữa châu Á và châu Mỹ. Doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DN trong 
ngành thủy sản nói riêng đang có nhiều cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng nhờ ưu 
đãi từ CPTPP. Doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thông qua 
việc cung ứng cho các doanh nghiệp, tập đoàn đa quốc gia đang đầu tư tại Việt Nam. 
Cơ hội đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu thủy sản 
Không chỉ tạo lợi thế đối với XK sang các nước thành viên, CPTPP còn tạo điều kiện 
để doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa được nguồn cung nguyên liệu NK từ các nước để sản 
xuất chế biến XK và gia công nhờ thuế XK giảm hoặc về 0%. Hiện nay, các nước thành viên 
CPTPP chiếm gần 16% NK thủy sản của Việt Nam. CPTPP tạo cơ hội cho Việt Nam cơ cấu 
lại thị trường xuất khẩu, nhập khẩu. Hiện nay, nhập khẩu nguyên liệu thủy sản của Việt Nam 
 579 
chủ yếu với khu vực châu Á. CPTPP mới sẽ là cơ hội để các DN chế biến thủy sản của Việt 
Nam thâm nhập, khai thác nhập khẩu nguyên liệu từ các thị trường mới, vừa phân tán rủi ro, 
vừa đảm bảo tiêu chuẩn về xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan khi XK thành phẩm sang 
thị trường CPTPP. Ngoài ra, có thể thấy 1uy tắc xuất xứ là thách thức cho xuất khẩu nhưng 
cũng bao hàm cơ hội khi tạo áp lực thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, giá trị 
gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu. 
Ngoài ra, nhờ các lợi ích tiềm năng của CPTPP, các nhà đầu tư có thể chuyển hướng 
vào cung ứng nguyên liệu, theo đó có thể làm cho xuất khẩu ít phụ thuộc vào nguyên liệu 
nhập khẩu hơn, thay vào đó sẽ dựa nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước để khắc phục 
các hạn chế của quy tắc xuất xứ 
Một số cơ hội khác góp phần thúc đẩy XK thủy sản của Việt Nam 
Cơ hội từ các cam kết về mua sắm công. Cam kết về mở cửa thị trường mua sắm công 
sẽ tạo cơ hội để các doanh nghiệp thủy sản Việt có thể tiếp cận được thị trường mua sắm công 
rất lớn của 10 nước CPTPP. Các DN thủy sản có thể NK máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, 
chế biến thủy sản, NK, chuyển giao công nghệ thuận lợi hơn, giá cả hợp l hơn. Đồng thời, 
thị trường mua sắm công trong nước cũng được mở cửa hơn với các doanh nghiệp tư nhân, 
đây chính là cơ hội lớn với ngành thủy sản. 
Cơ hội từ các cam kết về thủ t c chứng nhận xuất xứ, thủ t c hải quan. Về thủ tục 
chứng nhận xuất xứ, các bên cam kết áp dụng doanh nghiệp được tự chứng nhận xuất xứ, 
cách này tạo thuận lợi hơn rất nhiều, đồng thời tăng trách nhiệm của doanh nghiệp với hàng 
hóa; ngoài ra, các thủ tục khiếu nại, xử l vướng mắc các rào sản kỹ thuật đối với thương mại 
(TBT), các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS) nhanh hơn, minh bạch hơn; tiếp cận với các dịch 
vụ sản xuất tốt hơn về tài chính, bảo hiểm, logistics; tiếp cận các kênh phân phối thuận lợi 
hơn Những điều này sẽ giúp các DN trong ngành thủy sản cắt giảm chi phí và nâng cao khả 
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 
Cơ hội đến từ các cam kết về cải cách thể chế, môi trường kinh doanh. Tham gia 
CPTPP yêu cầu Nhà nước phải cải cách thể chế, từ đó doanh nghiệp có môi trường kinh 
doanh ổn định và minh bạch hơn. Các DN sản xuất, chế biến và kinh doanh thủy sản được 
đảm bảo môi trường kinh doanh và thể chế ổn định, minh bạch hơn. 
4. Thách thức đối với XK thủy sản của Việt Nam sang các nƣớc thành viên CPTPP 
Thách thức từ nội lực ngành thủy sản trong nước chưa vững 
Mặc dù sản xuất, xuất khẩu thủy sản của nước ta liên tục tăng trưởng trong những năm 
gần đây nhưng ngành thủy sản cũng vẫn còn nhiều hạn chế để phát triển XK bền vững. 
Những hạn chế đó bao gồm: (1) Nguồn nguyên liệu không ổn định. Vùng nguyên 
liệu lại phân tán làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng nguyên liệu cho chế biến. Công nghệ 
vận chuyển, bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch còn hạn chế, thường xuyên xảy ra tình 
trạng mất cân đổi giữa công suất thiết bị và khả năng cung cấp nguyên liệu (2) Hệ thống 
hạ tầng thuỷ sản còn lạc hậu, thiếu đồng bộ và chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất 
hàng hóa quy mô lớn. Vốn đầu tư cho hạ tầng thủy sản còn khó khăn. Tổ chức sản xuất của 
 580 
ngành thủy sản chưa hiệu quả, chất lượng và giá trị gia tăng của ngành thủy sản còn thấp; 
(3) Chất ượng con giống và nguồn cung con giống không ổn định, trại ương giống quy mô 
nhỏ, khó quản lý. Chi phí con giống, thức ăn, hóa chất, nhiên liệu đều cao nên giá thành sản 
phẩm cao. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa đủ khả năng kiểm soát toàn bộ 
quá trình sản xuất nguyên liệu từ con giống cho tới quy trình sản xuất, thu hoạch và chế 
biến; (4) Mối liên hệ giữa các DN chế biến thủy sản xuất khẩu và giữa cơ sở sản xuất ban 
đầu (khai thác, nuôi trồng) chưa hiệu quả. Thực tế cho thấy, phần lớn các DN thủy sản Việt 
Nam đều chưa thiết lập được hệ thống tổ chức thu mua nguyên liệu trực tiếp từ ngư dân, 
chủ yếu thu mua từ các nậu, vựa. Cách làm này dẫn đến hệ quả là DN phải lệ thuộc vào các 
chủ nậu, vựa vì nếu nậu, vựa quay lưng thì lập tức DN bị thiếu nguyên liệu. Còn đối với 
ngư dân, do không được giao dịch trực tiếp với DN, nên khó tiếp cận được sự hỗ trợ về mặt 
kỹ thuật từ các DN, không nắm bắt được thông tin về thị trường, giá cả và không có quyền 
mặc cả về giá cho sản phẩm của mình. 
Thách thức trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, quy tắc 
xuất xứ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. 
Về quy định tiêu chuẩn tại các thị trường NK. Có nhiều quy định mới và phức tạp mà 
các nước thành viên CPTPP đưa ra đối với hàng thủy sản NK, như quy định kỹ thuật khắt khe 
để bảo vệ sức kho con người, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Các quy định mới về 
kiểm nghiệm kiểm dịch và thực hiện kiểm tra chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm. Để XK 
sang các thị trường này thì hàng thủy sản của Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn nói trên, 
trong khi có rất nhiều tiêu chuẩn khó vượt qua. 
Chẳng hạn với thị trường Nhật Bản, Australia, khó khăn lớn nhất để thâm nhập vào thị 
trường này là các quy định nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm và an toàn sinh học, trong khi 
đó, thủy sản Việt Nam vẫn còn một số trường hợp dư lượng kháng sinh và dư lượng thuốc 
diệt nấm bị phát hiện. Với thị trường Malaysia và Brunei, các quốc gia Hồi giáo nên hàng 
thủy sản XK sang đây phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chứng nhận sản phẩm Halal. 
Về truy suất nguồn gốc. Thách thức lớn nhất là việc truy xuất nguồn gốc phải minh 
bạch để được miễn giảm thuế. Cách duy nhất để doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các ưu 
đãi về thuế quan chính là tuân thủ quy tắc xuất xứ kèm theo trong CPTPP. CPTPP chấp nhận 
xuất xứ cộng gộp có tổng giá trị khu vực từ 40% trở lên. Điều này không dễ thực hiện nhất là 
đối với các loại thủy sản NK về chế biến rồi XK. Đây là thách thức vì hầu hết doanh nghiệp 
XK thủy sản hiện nay chưa đủ khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất nguyên liệu từ 
con giống cho tới quy trình sản xuất, thu hoạch và chế biến, hàng hóa XK còn phụ thuộc 
nhiều vào nguyên liệu NK từ các nước ngoại khối. 
Thực hiện các cam kết về môi trường, lao động và trách nhiệm xã hội 
Những quy định về lao động, môi trường bị kiểm soát tuân thủ chặt chẽ hơn, đòi hỏi 
các DN Việt Nam phải chủ động thay đổi quy trình sản xuất, đánh bắt, chế biến và nâng cao 
năng lực quản trị. Việc tổ chức sản xuất bảo đảm quyền lợi cho công nhân, nông dân phải 
được tuân thủ. Do ngành thủy sản Việt Nam còn làm theo mùa vụ nên việc ký hết hợp đồng, 
 581 
bảo hiểm, đào tạo, thậm chí kể cả độ tuổi lao động cũng nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu 
của CPTPP. 
Vấn đề công bố thông tin công khai minh bạch về chất thải; giải pháp bảo vệ môi 
trường; cơ quan đầu mối chuyên trách/cá nhân chuyên trách về môi trường tại các tổ chức, 
doanh nghiệp cũng là những nội dung cần được đáp ứng khi XK vào thị trường CPTPP. 
Những yêu cầu trên đã đặt ra không ít thách thức đối với các cơ quan quản l nhà 
nước cũng như doanh nghiệp Việt Nam bởi hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường 
của Việt Nam vẫn đang trong quá trình tiếp tục được hoàn thiện, những khuôn khổ pháp l 
cho lĩnh vực môi trường còn chưa đầy đủ và thậm chí còn chồng ch o trong một số lĩnh vực 
cụ thể, gây khó khăn cho việc thực thi các cam kết quốc tế; năng lực kinh nghiệm của một số 
cán bộ trong việc xử l các vấn đề thương mại quốc tế có liên quan đến môi trường chưa đáp 
ứng được yêu cầu. Hiện nay, việc thực hiện CSR phần lớn còn mang tính đối phó, chỉ đáp ứng 
các yêu cầu của khối các đơn vị nhập khẩu, chưa đi vào bản chất bên trong. 
Hàng rào phi thuế (rào cản kỹ thuật) 
Các nước NK có thể cố tình lợi dụng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩn (VSATTP) để 
"làm khó" các DN XK luôn là thách thức không nhỏ đối với DN thủy sản VN. Chẳng hạn, với 
thị trường Nhật Bản trong 1-2 năm gần đây đã đưa ra cảnh báo và càng lúc càng gia tăng mức 
cảnh báo đối với hàng thủy sản VN, từ vài chục, vài trăm rồi lên đến 700-800 loại hóa chất 
cấm. Quy định này liên quan đến tất cả các DN tham gia vào quá trình từ sản xuất, chế biến 
đến XK. Hơn nữa, để xác định về các loại chất cấm tồn dư trong thủy sản thì phía Nhật Bản 
tiến hành kiểm nghiệm với các tần suất kiểm nghiệm theo xu thế tăng dần lên, từ vài lô, đến 
50% rồi 100% các lô hàng NK từ Việt Nam khiến chi phí (sản xuất, kiểm nghiệm, kiểm tra... 
để được XK) tăng lên và được cộng vào giá làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. 
DN Việt Nam phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nƣớc ngoài ngay tại thị 
trƣờng nội địa. 
Sức p cạnh tranh là vấn đề đầu tiên đối với các doanh nghiệp XK thủy sản Việt Nam. 
Tuy nhiên, cạnh tranh luôn có tính hai mặt rõ ràng. Một mặt, cạnh tranh sẽ rất tiêu cực đối với 
các doanh nghiệp yếu k m, nhất là các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc 
hậu. Mặt khác, cạnh tranh mang lại động lực cho các doanh nghiệp liên tục đổi mới và sáng 
tạo, đồng thời tạo ra thêm nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. 
Về phía các DN chế biến, xuất khẩu thì do không có mối liên hệ trực tiếp với nông dân 
nên đầu vào của họ cũng chỉ thông qua thương lái, vì vậy, giá cả nguyên liệu đầu vào của các 
DN chế biến và xuất khẩu thường khá cao (trong khi nông dân lại thường xuyên bán với giá 
thấp). Đồng thời khi thất mùa, nguồn cung hiếm thì các thương lái chủ yếu thu mua hàng để 
bán l ra thị trường để có giá cao hơn so với việc bán cho các công ty chế biến, xuất khẩu làm 
cho các công ty đôi khi lâm vào cảnh thiếu nguyên liệu sản xuất, không đủ khả năng thực hiện 
hợp đồng gây mất lòng tin và uy tín đối với khách hàng làm cho ngành thủy sản không xây 
dựng được thương hiệu và mất chỗ đứng trên thị trường. 
 582 
5. Một số huyến nghị 
 Để tận dụng các cơ hội và vượt qua những thách thức trong XK thủy sản vào thị 
trường các nước thành viên CPTPP, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các nội dung sau đây: 
 Thứ nhất, cải cách hoàn thiện thể chế, quy định pháp luật theo luật quốc tế và liên 
quan đến FTA và CPTPP: sửa đổi Luật Lao động, kiểm tra chuyên ngành Đào tạo và hỗ trợ để 
DN chuẩn bị và đối phó kịp thời với các tranh chấp thương mại, đồng thời phát triển nguồn 
nhân lực trong các DN. 
 Thứ hai, tăng cường công tác quản l chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đối với 
nông, thủy sản thông qua các biện pháp quản l theo hệ thống từ sản xuất nguyên liệu đến chế 
biến XK như áp dụng GAP, CoC, HACCP. Rà soát, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật đối 
với hàng nông, lâm, thủy sản và vật tư nông nghiệp theo hướng hài hòa với các tiêu chuẩn, 
quy chuẩn của các nước NK. Xử l nghiêm các hành vi gian lận thương mại, vi phạm qui định 
về chất lượng, an toàn thực phẩm, cạnh tranh không lành mạnh làm mất uy tín nông, lâm, 
thủy sản Việt Nam. 
 Thứ ba, áp dụng các giải pháp đồng bộ nhằm xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh; 
kiểm soát tốt việc lạm dụng kháng sinh, hóa chất công nghiệp và chất cấm trong chăn nuôi và 
nuôi trồng thủy sản. Tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết, gắn sản xuất với chế biến và tiêu 
thụ, XK sản phẩm. 
 Thứ tư, tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, chú trọng liên kết chuỗi để nâng cao 
năng suất, chất lượng, kiểm soát tốt ATVSTP. Đặc biệt chú trọng thực hiện và đáp ứng các quy 
định, tiêu chuẩn về lao động và môi trường, các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững. 
 Thứ năm, chú trọng công tác xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu sản phẩm để 
sản phẩm XK Việt Nam được biết đến trên thị trường quốc tế. Đẩy mạnh công tác xúc tiến 
thương mại tại thị trường các nước tham gia FTA, tăng cường truyền thông quảng bá sản 
phẩm thủy sản Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thu Trang (2019), CPTPP và Ngành Thủy sản–Trái cây, rau củ Chăn nuôi, 
chế biến thịt Việt Nam. Bài trình bày tại Hội thảo Ngành Thủy Sản – Trái Cây, Rau củ - Chăn 
nuôi và chế biến thịt trước cơ hội và thách thức từ CPTPP, VCCI tổ chức tại Cần Thơ năm 2019. 
2. Văn Thọ (2019), Hiệp định CPTPP và EVFTA tạo cơ hội mở rộng thị trường XK 
thủy sản. Trang thông tin điện tử Tổng cục Thủy sản, đăng tải ngày 31/7/2019. 
3. VASEP (2019a), Hiệp định CPTPP và EVFTA: Cơ hội thuế quan và khuyến nghị 
cho ngành thủy sản Việt Nam. Báo cáo tại Hội thảo Cơ hội và Thách thức của ngành thủy sản 
tại các Hiệp định CPTPP & EVFTA tại Hà Nội năm 2019. 
4. VASEP (2019b), Tổng quan ngành thủy sản Việt Nam, tải về từ website của 
VASEP,  
5. VCCI (2018), Tóm tắt chương 2 Hiệp định CPTPP: Đối xử quốc gia và mở cửa thị 
trường đối với hàng hóa. Đăng tải trên website của VCCI. 

File đính kèm:

  • pdfco_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_xuat_khau_thuy_san_viet_nam_vao.pdf