Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
CPTPP đã có hiệu ực tại Việt Nam và xuất khẩu (XK) thủy sản được dự
báo à một trong những ĩnh vực được hưởng ợi khá ớn từ những cam kết về cắt giảm thuế
quan và những cam kết về mua sắm công, ogistic. Tuy nhiên, nhiều thách thức cũng đặt ra
đối với ngành thủy sản để tiếp cận thị trường các nước thành viên CPTPP. Đó à việc đáp
ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cao hơn, quy định về xuất xứ hàng hóa, ao động, môi trường,
phát triển bền vững . Vì vậy, để vượt qua thách thức, tận d ng cơ hội XK sang các nước
thành viên CPTPP, Việt Nam cần có các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, các Doanh nghiệp
(DN) và người nuôi trồng, đánh bắt thủy sản
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường các nước thành viên hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
i sản phẩm thường xuyên, với số lượng lớn đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng, nhà bán l có thể nhận được mức giá cung cấp được chiết khấu; hoặc cuộc cạnh tranh giành quyền cung cấp giữa các nhà chế biến – xuất khẩu cũng dẫn đến kết quả tương tự. Hai yếu tố kép này giúp nhà bán l có thể hạ giá bán sản phẩm mang nhãn hiệu của họ xuống thấp hơn so với các nhà cung cấp khác, có sản phẩm bày bán trong hệ thống của nhà bán l . Với CPTPP, rào cản về thuế quan và các rào cản khác để thâm nhập mắt xích phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng giảm, DN thủy sản của Việt Nam có thể tận dụng cơ hội và tạo nhãn hiệu riêng để phát triển các kênh bán l , điều này sẽ giúp phát triển thương hiệu thủy sản VN và duy trì vị thế trong tương lai. Điều này được thực hiện thông qua việc mở rộng quy mô kinh doanh của các nhà sản xuất (thông qua tái đầu tư mở rộng, mua bán – sát nhập, hoặc thâu tóm các nhà sản xuất khác); mạng lƣới kinh doanh toàn cầu (tích cực tiến sâu vào thị trường tiêu thụ nội địa, bằng cách đàm phán cung cấp sản phẩm cho các nhà bán l , thay vì xuất khẩu đến các đại lý xuất nhập khẩu, bán buôn); tăng cƣờng tính liên kết dọc (quản trị chi phí vốn, thức ăn chăn nuôi, con giống, liên kết với người nuôi trồng) và gia tăng giá trị sản phẩm. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự cạnh tranh ngày càng gia tăng cần có giải pháp kết nối các doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi, cập nhật cơ hội, thách thức từ xung đột thương mại toàn cầu, các dịch vụ hỗ trợ như bảo hiểm, kiểm định hàng hóa, logistics, thông tin doanh nghiệp CPTPP thúc đẩy tạo các mối quan hệ FTA mới và thiết lập mạng lưới mới, bao gồm chuỗi cung ứng giữa châu Á và châu Mỹ. Doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DN trong ngành thủy sản nói riêng đang có nhiều cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng nhờ ưu đãi từ CPTPP. Doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thông qua việc cung ứng cho các doanh nghiệp, tập đoàn đa quốc gia đang đầu tư tại Việt Nam. Cơ hội đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu thủy sản Không chỉ tạo lợi thế đối với XK sang các nước thành viên, CPTPP còn tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa được nguồn cung nguyên liệu NK từ các nước để sản xuất chế biến XK và gia công nhờ thuế XK giảm hoặc về 0%. Hiện nay, các nước thành viên CPTPP chiếm gần 16% NK thủy sản của Việt Nam. CPTPP tạo cơ hội cho Việt Nam cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, nhập khẩu. Hiện nay, nhập khẩu nguyên liệu thủy sản của Việt Nam 579 chủ yếu với khu vực châu Á. CPTPP mới sẽ là cơ hội để các DN chế biến thủy sản của Việt Nam thâm nhập, khai thác nhập khẩu nguyên liệu từ các thị trường mới, vừa phân tán rủi ro, vừa đảm bảo tiêu chuẩn về xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan khi XK thành phẩm sang thị trường CPTPP. Ngoài ra, có thể thấy 1uy tắc xuất xứ là thách thức cho xuất khẩu nhưng cũng bao hàm cơ hội khi tạo áp lực thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu. Ngoài ra, nhờ các lợi ích tiềm năng của CPTPP, các nhà đầu tư có thể chuyển hướng vào cung ứng nguyên liệu, theo đó có thể làm cho xuất khẩu ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu hơn, thay vào đó sẽ dựa nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước để khắc phục các hạn chế của quy tắc xuất xứ Một số cơ hội khác góp phần thúc đẩy XK thủy sản của Việt Nam Cơ hội từ các cam kết về mua sắm công. Cam kết về mở cửa thị trường mua sắm công sẽ tạo cơ hội để các doanh nghiệp thủy sản Việt có thể tiếp cận được thị trường mua sắm công rất lớn của 10 nước CPTPP. Các DN thủy sản có thể NK máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến thủy sản, NK, chuyển giao công nghệ thuận lợi hơn, giá cả hợp l hơn. Đồng thời, thị trường mua sắm công trong nước cũng được mở cửa hơn với các doanh nghiệp tư nhân, đây chính là cơ hội lớn với ngành thủy sản. Cơ hội từ các cam kết về thủ t c chứng nhận xuất xứ, thủ t c hải quan. Về thủ tục chứng nhận xuất xứ, các bên cam kết áp dụng doanh nghiệp được tự chứng nhận xuất xứ, cách này tạo thuận lợi hơn rất nhiều, đồng thời tăng trách nhiệm của doanh nghiệp với hàng hóa; ngoài ra, các thủ tục khiếu nại, xử l vướng mắc các rào sản kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS) nhanh hơn, minh bạch hơn; tiếp cận với các dịch vụ sản xuất tốt hơn về tài chính, bảo hiểm, logistics; tiếp cận các kênh phân phối thuận lợi hơn Những điều này sẽ giúp các DN trong ngành thủy sản cắt giảm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cơ hội đến từ các cam kết về cải cách thể chế, môi trường kinh doanh. Tham gia CPTPP yêu cầu Nhà nước phải cải cách thể chế, từ đó doanh nghiệp có môi trường kinh doanh ổn định và minh bạch hơn. Các DN sản xuất, chế biến và kinh doanh thủy sản được đảm bảo môi trường kinh doanh và thể chế ổn định, minh bạch hơn. 4. Thách thức đối với XK thủy sản của Việt Nam sang các nƣớc thành viên CPTPP Thách thức từ nội lực ngành thủy sản trong nước chưa vững Mặc dù sản xuất, xuất khẩu thủy sản của nước ta liên tục tăng trưởng trong những năm gần đây nhưng ngành thủy sản cũng vẫn còn nhiều hạn chế để phát triển XK bền vững. Những hạn chế đó bao gồm: (1) Nguồn nguyên liệu không ổn định. Vùng nguyên liệu lại phân tán làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng nguyên liệu cho chế biến. Công nghệ vận chuyển, bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch còn hạn chế, thường xuyên xảy ra tình trạng mất cân đổi giữa công suất thiết bị và khả năng cung cấp nguyên liệu (2) Hệ thống hạ tầng thuỷ sản còn lạc hậu, thiếu đồng bộ và chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Vốn đầu tư cho hạ tầng thủy sản còn khó khăn. Tổ chức sản xuất của 580 ngành thủy sản chưa hiệu quả, chất lượng và giá trị gia tăng của ngành thủy sản còn thấp; (3) Chất ượng con giống và nguồn cung con giống không ổn định, trại ương giống quy mô nhỏ, khó quản lý. Chi phí con giống, thức ăn, hóa chất, nhiên liệu đều cao nên giá thành sản phẩm cao. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa đủ khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất nguyên liệu từ con giống cho tới quy trình sản xuất, thu hoạch và chế biến; (4) Mối liên hệ giữa các DN chế biến thủy sản xuất khẩu và giữa cơ sở sản xuất ban đầu (khai thác, nuôi trồng) chưa hiệu quả. Thực tế cho thấy, phần lớn các DN thủy sản Việt Nam đều chưa thiết lập được hệ thống tổ chức thu mua nguyên liệu trực tiếp từ ngư dân, chủ yếu thu mua từ các nậu, vựa. Cách làm này dẫn đến hệ quả là DN phải lệ thuộc vào các chủ nậu, vựa vì nếu nậu, vựa quay lưng thì lập tức DN bị thiếu nguyên liệu. Còn đối với ngư dân, do không được giao dịch trực tiếp với DN, nên khó tiếp cận được sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật từ các DN, không nắm bắt được thông tin về thị trường, giá cả và không có quyền mặc cả về giá cho sản phẩm của mình. Thách thức trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, quy tắc xuất xứ và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Về quy định tiêu chuẩn tại các thị trường NK. Có nhiều quy định mới và phức tạp mà các nước thành viên CPTPP đưa ra đối với hàng thủy sản NK, như quy định kỹ thuật khắt khe để bảo vệ sức kho con người, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Các quy định mới về kiểm nghiệm kiểm dịch và thực hiện kiểm tra chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm. Để XK sang các thị trường này thì hàng thủy sản của Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn nói trên, trong khi có rất nhiều tiêu chuẩn khó vượt qua. Chẳng hạn với thị trường Nhật Bản, Australia, khó khăn lớn nhất để thâm nhập vào thị trường này là các quy định nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm và an toàn sinh học, trong khi đó, thủy sản Việt Nam vẫn còn một số trường hợp dư lượng kháng sinh và dư lượng thuốc diệt nấm bị phát hiện. Với thị trường Malaysia và Brunei, các quốc gia Hồi giáo nên hàng thủy sản XK sang đây phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chứng nhận sản phẩm Halal. Về truy suất nguồn gốc. Thách thức lớn nhất là việc truy xuất nguồn gốc phải minh bạch để được miễn giảm thuế. Cách duy nhất để doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các ưu đãi về thuế quan chính là tuân thủ quy tắc xuất xứ kèm theo trong CPTPP. CPTPP chấp nhận xuất xứ cộng gộp có tổng giá trị khu vực từ 40% trở lên. Điều này không dễ thực hiện nhất là đối với các loại thủy sản NK về chế biến rồi XK. Đây là thách thức vì hầu hết doanh nghiệp XK thủy sản hiện nay chưa đủ khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất nguyên liệu từ con giống cho tới quy trình sản xuất, thu hoạch và chế biến, hàng hóa XK còn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu NK từ các nước ngoại khối. Thực hiện các cam kết về môi trường, lao động và trách nhiệm xã hội Những quy định về lao động, môi trường bị kiểm soát tuân thủ chặt chẽ hơn, đòi hỏi các DN Việt Nam phải chủ động thay đổi quy trình sản xuất, đánh bắt, chế biến và nâng cao năng lực quản trị. Việc tổ chức sản xuất bảo đảm quyền lợi cho công nhân, nông dân phải được tuân thủ. Do ngành thủy sản Việt Nam còn làm theo mùa vụ nên việc ký hết hợp đồng, 581 bảo hiểm, đào tạo, thậm chí kể cả độ tuổi lao động cũng nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu của CPTPP. Vấn đề công bố thông tin công khai minh bạch về chất thải; giải pháp bảo vệ môi trường; cơ quan đầu mối chuyên trách/cá nhân chuyên trách về môi trường tại các tổ chức, doanh nghiệp cũng là những nội dung cần được đáp ứng khi XK vào thị trường CPTPP. Những yêu cầu trên đã đặt ra không ít thách thức đối với các cơ quan quản l nhà nước cũng như doanh nghiệp Việt Nam bởi hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường của Việt Nam vẫn đang trong quá trình tiếp tục được hoàn thiện, những khuôn khổ pháp l cho lĩnh vực môi trường còn chưa đầy đủ và thậm chí còn chồng ch o trong một số lĩnh vực cụ thể, gây khó khăn cho việc thực thi các cam kết quốc tế; năng lực kinh nghiệm của một số cán bộ trong việc xử l các vấn đề thương mại quốc tế có liên quan đến môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiện nay, việc thực hiện CSR phần lớn còn mang tính đối phó, chỉ đáp ứng các yêu cầu của khối các đơn vị nhập khẩu, chưa đi vào bản chất bên trong. Hàng rào phi thuế (rào cản kỹ thuật) Các nước NK có thể cố tình lợi dụng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩn (VSATTP) để "làm khó" các DN XK luôn là thách thức không nhỏ đối với DN thủy sản VN. Chẳng hạn, với thị trường Nhật Bản trong 1-2 năm gần đây đã đưa ra cảnh báo và càng lúc càng gia tăng mức cảnh báo đối với hàng thủy sản VN, từ vài chục, vài trăm rồi lên đến 700-800 loại hóa chất cấm. Quy định này liên quan đến tất cả các DN tham gia vào quá trình từ sản xuất, chế biến đến XK. Hơn nữa, để xác định về các loại chất cấm tồn dư trong thủy sản thì phía Nhật Bản tiến hành kiểm nghiệm với các tần suất kiểm nghiệm theo xu thế tăng dần lên, từ vài lô, đến 50% rồi 100% các lô hàng NK từ Việt Nam khiến chi phí (sản xuất, kiểm nghiệm, kiểm tra... để được XK) tăng lên và được cộng vào giá làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. DN Việt Nam phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nƣớc ngoài ngay tại thị trƣờng nội địa. Sức p cạnh tranh là vấn đề đầu tiên đối với các doanh nghiệp XK thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, cạnh tranh luôn có tính hai mặt rõ ràng. Một mặt, cạnh tranh sẽ rất tiêu cực đối với các doanh nghiệp yếu k m, nhất là các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu. Mặt khác, cạnh tranh mang lại động lực cho các doanh nghiệp liên tục đổi mới và sáng tạo, đồng thời tạo ra thêm nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Về phía các DN chế biến, xuất khẩu thì do không có mối liên hệ trực tiếp với nông dân nên đầu vào của họ cũng chỉ thông qua thương lái, vì vậy, giá cả nguyên liệu đầu vào của các DN chế biến và xuất khẩu thường khá cao (trong khi nông dân lại thường xuyên bán với giá thấp). Đồng thời khi thất mùa, nguồn cung hiếm thì các thương lái chủ yếu thu mua hàng để bán l ra thị trường để có giá cao hơn so với việc bán cho các công ty chế biến, xuất khẩu làm cho các công ty đôi khi lâm vào cảnh thiếu nguyên liệu sản xuất, không đủ khả năng thực hiện hợp đồng gây mất lòng tin và uy tín đối với khách hàng làm cho ngành thủy sản không xây dựng được thương hiệu và mất chỗ đứng trên thị trường. 582 5. Một số huyến nghị Để tận dụng các cơ hội và vượt qua những thách thức trong XK thủy sản vào thị trường các nước thành viên CPTPP, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các nội dung sau đây: Thứ nhất, cải cách hoàn thiện thể chế, quy định pháp luật theo luật quốc tế và liên quan đến FTA và CPTPP: sửa đổi Luật Lao động, kiểm tra chuyên ngành Đào tạo và hỗ trợ để DN chuẩn bị và đối phó kịp thời với các tranh chấp thương mại, đồng thời phát triển nguồn nhân lực trong các DN. Thứ hai, tăng cường công tác quản l chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đối với nông, thủy sản thông qua các biện pháp quản l theo hệ thống từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến XK như áp dụng GAP, CoC, HACCP. Rà soát, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng nông, lâm, thủy sản và vật tư nông nghiệp theo hướng hài hòa với các tiêu chuẩn, quy chuẩn của các nước NK. Xử l nghiêm các hành vi gian lận thương mại, vi phạm qui định về chất lượng, an toàn thực phẩm, cạnh tranh không lành mạnh làm mất uy tín nông, lâm, thủy sản Việt Nam. Thứ ba, áp dụng các giải pháp đồng bộ nhằm xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh; kiểm soát tốt việc lạm dụng kháng sinh, hóa chất công nghiệp và chất cấm trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, XK sản phẩm. Thứ tư, tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, chú trọng liên kết chuỗi để nâng cao năng suất, chất lượng, kiểm soát tốt ATVSTP. Đặc biệt chú trọng thực hiện và đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn về lao động và môi trường, các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững. Thứ năm, chú trọng công tác xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu sản phẩm để sản phẩm XK Việt Nam được biết đến trên thị trường quốc tế. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại tại thị trường các nước tham gia FTA, tăng cường truyền thông quảng bá sản phẩm thủy sản Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thu Trang (2019), CPTPP và Ngành Thủy sản–Trái cây, rau củ Chăn nuôi, chế biến thịt Việt Nam. Bài trình bày tại Hội thảo Ngành Thủy Sản – Trái Cây, Rau củ - Chăn nuôi và chế biến thịt trước cơ hội và thách thức từ CPTPP, VCCI tổ chức tại Cần Thơ năm 2019. 2. Văn Thọ (2019), Hiệp định CPTPP và EVFTA tạo cơ hội mở rộng thị trường XK thủy sản. Trang thông tin điện tử Tổng cục Thủy sản, đăng tải ngày 31/7/2019. 3. VASEP (2019a), Hiệp định CPTPP và EVFTA: Cơ hội thuế quan và khuyến nghị cho ngành thủy sản Việt Nam. Báo cáo tại Hội thảo Cơ hội và Thách thức của ngành thủy sản tại các Hiệp định CPTPP & EVFTA tại Hà Nội năm 2019. 4. VASEP (2019b), Tổng quan ngành thủy sản Việt Nam, tải về từ website của VASEP, 5. VCCI (2018), Tóm tắt chương 2 Hiệp định CPTPP: Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường đối với hàng hóa. Đăng tải trên website của VCCI.
File đính kèm:
- co_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_xuat_khau_thuy_san_viet_nam_vao.pdf