Cơ hội và thách thức của các FTA mới cho ngành Công nghệ thông tin ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều Hiệp định
thương mại với các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới. Các hiệp định tự do thương
mại vừa tạo nhiều ưu đãi và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng nó cũng mang đến
không ít những thách thức. Bài viết nhằm trình bày sơ ược các FTA mà Việt Nam đã tham
gia đồng thời đề cập đến những cơ hội và thách thức mà chúng mang lại cho ngành công
nghiệp công nghệ thông tin ở Việt nam. Cuối bài viết là một số hàm ý trong th c đẩy tiến
trình áp d ng các điều khoản và phát triển ĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt Nam trong bối
cảnh tự do hóa thương mại.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Cơ hội và thách thức của các FTA mới cho ngành Công nghệ thông tin ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức của các FTA mới cho ngành Công nghệ thông tin ở Việt Nam
8. Riêng lĩnh vực viễn thông, Việt Nam đã ghi nhận doanh thu năm 2019 đạt 469,7 nghìn tỷ đồng, tăng 18,67% so với năm 2018. Trong đó, doanh thu từ dịch vụ thoại và SMS vẫn chiếm tỷ trọng lên tới 76,6%. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ trên toàn cầu, sự phát triển của các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), phân tích dữ liệu (Data Analytics), vạn vật kết nối (Internet of Things - IoT), v.v. sẽ mang lại những bước 650 tiến nhảy vọt trong nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghiệp, mang đến những mô hình kinh doanh mới, tối ưu hóa chuỗi cung ứng và logistics, giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Ngành công nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam đang hứa hẹn có nhiều đột phá và cơ hội mới, các hiệp định FTA mới vừa tạo thêm những cơ hội mới nhưng cũng mang đến những thách thức không nhỏ cho ngành công nghiệp nhiều tiềm năng nhưng còn non tr này, vậy những cơ hội nào được tạo đà cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam? 4. Những cơ hội và thách thức cho ngành công nghệ thông tin trong bối cảnh tự do thƣơng mại Các FTA thế hệ mới góp phần quan trọng, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút được nhiều tập đoàn, nhà đầu tư lớn, có tiềm năng từ các nước trong khu vực và thế giới đến Việt Nam. Góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam chuyển từ sản xuất xuất khẩu các sản phẩm thô và thủ công sang giai đoạn chế biến tinh với giá trị gia tăng cao hơn. Theo thống kê, lũy kế đến hết năm 2018, Việt Nam đã thu hút được 27.353 án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), với tổng vốn đăng ký khoảng 340 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án FDI ước đạt 191,4 tỷ USD, bằng 56,2% tổng vốn đăng k còn hiệu lực. Riêng 7 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đã thu hút 2.064 dự án cấp phép mới, với số vốn đăng k đạt 8,27 tỷ USD, tăng 24,6% về số dự án và giảm 37,4% về vốn đăng k so với cùng k năm 2018. Tính theo tỷ lệ % GDP, vốn FDI vào Việt Nam đã vượt Trung Quốc, Ấn Ðộ và các nước ASEAN (Lê Huy Khôi, 2019), (Đỗ Ngọc Trâm, 2019). Theo Bộ TT&TT, trong giai đoạn 2014 - 2019, ngành công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất nước với doanh thu ước tính đạt 110 tỷ USD, tăng trưởng trung bình 31,1% năm, hình thành đội ngũ lao động công nghệ số với hơn 1 triệu người. Trong năm 2019, các doanh nghiệp CNTT đã nộp ngân sách nhà nước trên 53.000 tỷ đồng, trong đó, hai mặt hàng công nghiệp CNTT là máy vi tính và linh kiện điện tử, giữ vị trí Top 3 trong 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2019. Ngoài 3 thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, đã có thêm 5 tỉnh, thành phố tham gia vào nhóm địa phương có doanh thu trên 1 tỷ USD là Bắc Ninh, Thái Nguyên, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Hải Phòng. Cũng đã có tới 8 địa phương có số lượng doanh nghiệp trên 1.000 là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Đồng Nai, Tây Ninh, Thừa Thiên Huế và Lạng Sơn; 15 địa phương có số lượng lao động CNTT trên 10.000. Chia s về thu hút doanh nghiệp FDI và phát triển lĩnh vực công nghiệp ICT tại Bắc Ninh, ông Nghiêm Bá Hách, Phó Giám đốc Sở TTTT tỉnh cho biết: Sau hơn 20 năm thu hút đầu tư FDI, Bắc Ninh đã đạt kết quả nhất định, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng. Đầu tư nước ngoài tại Bắc Ninh có 1429 dự án đến từ 32 quốc gia với 18,3 tỷ USD, riêng Hàn Quốc 10 tỷ USD. Ông Trần Hữu Quyền, Tổng Giám đốc VNPT-Technology cho biết: việc đào tạo mang tính thực tiễn cần giải pháp xã hội hoá. Có thể yêu cầu doanh nghiệp FDI khi vào Việt Nam phải vào đào tạo nguồn lực, phải có khung thời gian rõ ràng, như 3 - 5 năm hỗ trợ nâng 651 năng lực của người Việt Nam đến tầm nào. Các doanh nghiệp FDI phải mở Lab ở một số trường, trong khoảng 3 năm về một số công nghệ lõi phục vụ các dịch vụ trong bối cảnh công nghệ 4.0. 4.1. Những ưu đãi và cơ hội cho ngành công nghệ thông tin Tại Hội thảo được Bộ TT&TT tổ chức ngày 19/12/2019, nhằm xây dựng Chương trình phát triển công nghiệp CNTT, điện tử - viễn thông đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4. Ông Nguyễn Thanh Tuyên, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp CNTT, Bộ TTTT đã giới thiệu dự thảo Chương trình phát triển công nghiệp CNTT điện tử - viễn thông đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, hướng tới CMCN 4.0. Chương trình đặt mục tiêu xây dựng được 10 doanh nghiệp CNTT trong nước có quy mô lớn, có năng lực cạnh tranh quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh 500 doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) nhằm tham gia sâu, rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu, trong đó, 50 doanh nghiệp đạt các chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất lượng. Về công nghệ, sản phẩm, dịch vụ: Nghiên cứu, sản xuất đáp ứng 100% nhu cầu trong nước và xuất khẩu các thiết bị viễn thông đầu cuối và hạ tầng mạng viễn thông thế hệ mới phù hợp xu hướng phát triển công nghệ; Phát triển và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công nghệ 4.0: AI, IoT, AR, VR, phân tích dữ liệu, v.v. để đáp ứng các yêu cầu của chuyển đổi số quốc gia. Với các hiệp định FTA thế hệ mới được ký kết, các doanh nghiệp công nghệ thông tin đang đứng trước những cơ hội và lợi thế rõ nét: Thứ nhất là về dòng vốn đầu tư từ các khu vực ký kết, với lợi thế nhân công giá r và thị trường nội địa đầy tiềm năng cũng như khả năng xuất khẩu to lớn, dòng vốn đầu tư vào các doanh nghiệp công nghệ thông tin được cho là sẽ dồi dào, đặc biệt các VC-backed hay các doanh nghiệp cung cấp vốn đầu tư mạo hiểm. Các sản phẩm của ngành CNTT thường không thể ra đời trong thời gian ngắn, vì vậy, việc thu hút vốn đầu tư và có lượng vốn dài hạn là một trong những điều kiện tiên quyết dẫn đến thành công của các doanh nghiệp của ngành này. Bên cạnh đó, các sản phẩm công nghệ thông tin thường mang tính chất đặc thù và khó định giá, do vậy, để duy trì sự thành công cần có những lượng vốn nhiều trong dài hạn. Thứ hai là về cam kết mở cửa thị trường dịch vụ trong nước, hiện nay, Việt Nam cam kết mở cửa rộng hơn so với cam kết thuộc Tổ chức Thương mại thế giới cho các nhà cung cấp dịch vụ của EU và CPTPP trong nhiều lĩnh vực dịch vụ quan trọng, trong đó có các lĩnh vực dịch vụ tài chính như ngân hàng, bảo hiểm. Với việc mở rộng này, các doanh nghiệp Fintech sẽ có cơ hội trong mở rộng và thay đổi cấu trúc thị trường dịch vụ tài chính, tạo nhiều thị trường cho các start-up về công nghệ thông tin hướng dịch vụ Thứ ba là về cam kết không đánh thuế nhập khẩu đối với các giao dịch liên quan đến sản phẩm số, tự do lưu chuyển thông tin qua biên giới bằng phương thức điện tử trong CPTPP được coi là cơ hội để các doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam mở rộng hoạt động ra các nước trong CPTPP, tạo khả năng mở rộng kết nối và truyền thông đến các thị trường mới. 652 Thứ tư, là các cam kết về hợp tác và nâng cao năng lực, xây dựng chương trình phát triển, thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong CPTPP và EVFTA sẽ cung cấp các chương trình hợp tác, hỗ trợ, trao đổi kinh nghiệm cho các cơ quan quản lý và khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV. Các nước thành viên CPTPP sẽ thành lập Ủy ban DNNVV nhằm đảm bảo sự tham gia của các DN này trong quá trình thực thi CPTPP và hỗ trợ DN tận dụng các lợi ích của Hiệp định. Với những cam kết này, các doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ có nhiều cơ hội cũng như ưu đãi trong phát triển. Thứ năm là tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa công nghệ thông tin, linh kiện điện tử của Việt Nam. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và một loạt Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới (TPP, FTA EU-Việt Nam, v.v.) cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngành công nghiệp công nghệ thông tin – điện tử phát huy tiềm năng to lớn đưa các sản phẩm vươn ra khu vực và thế giới. Cuối cùng là tạo cơ hội đưa Việt Nam trở thành công nơi sản xuất các thiết bị công nghệ hay công xưởng thứ hai của thế giới khi một loạt tập đoàn điện tử, viễn thông lớn tuyên bố rút lui khỏi thị trường Trung Quốc, chuyển sang khu vực Đông Nam Á. Sự quan tâm và tăng cường đầu tư của ba quốc gia hàng đầu về công nghệ thông tin là Hoa K , Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ tạo đà k o theo nhiều nhà đầu tư khác tham gia vào công cuộc phát triển của Việt Nam. 4.2. Những thách thức cho ngành công nghệ thông tin Bên cạnh những ưu đãi và cơ hội, việc Việt Nam tham gia ký kết các Hiệp định thương mại tự do cũng đem đến cho ngành công nghiệp công nghệ thông tin những thách thức không nhỏ. Thứ nhất là sức ép cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa, đây là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam, do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam hiện nay còn yếu. Điều này thể hiện rõ ở quy mô vốn nhỏ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, công nghệ, trình độ cán bộ còn yếu, năng suất lao động thấp. Thứ hai là vấn đề nhân lực công nghệ thông tin còn đang thiếu và yếu, Việt Nam chưa có được đội ngũ đủ mạnh để thích ứng với yêu cầu đi trước đón đầu công nghệ, trong khi nhân lực chất lượng cao mà các doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam đang cần lại bị thu hút sang các công ty xuyên quốc gia, hoặc các thị trường trong khu vực. Điều này làm tăng áp lực lên các doanh nghiệp vốn đã non tr và năng lực cạnh tranh yếu. Thứ bà là quy mô và năng lực thực sự của doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường quốc tế hầu hết không có tiếng nói, sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm từ thiết bị sang dịch vụ và những sản phẩm tư vấn cũng là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Như vậy, bên cạnh những ưu đãi và cơ hội, thì những thách thức trên cũng là những vấn đề không nhỏ mà các doanh nghiệp công nghệ thông tin phải đối mặt khi Việt Nam tham gia vào các Hiệp định tự do hóa thương mại. 653 5. Kết luận và một số huyến nghị 5.1. ột số khu ến nghị Xu thế tích hợp công nghệ thông tin - viễn thông đang trở nên phổ biến và rõ nét trong bối cảnh cách mạng công nghệ đang diễn ra cho thấy, giá trị sản phẩm công nghệ thông tin sẽ ngày càng tập trung vào tính phổ dụng, thông minh, tiện dụng, tiết kiệm năng lượng và kết nối được với nhau. Ngành công nghệ thông tin được coi là một trong những ngành có mũi nhọn, nhiều tiềm năng của Việt Nam, vì vậy, để tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin trong bối cảnh tự do hóa thương mại, muốn vậy, Nhà nước cần có sự đột phá trong điều hành thực hiện các giải pháp, chính sách đầu tư xây dựng lực lượng nhân lực chất lượng cao, các phương tiện phục vụ cho hoạt động nghiên cứu phát triển các sản phẩm công nghệ thông tin và công nghệ điện tử trọng điểm có tính chiến lược quốc gia, đẩy mạnh thực hiện mua và chuyển giao công nghệ phục vụ chiến lược công nghiệp hóa nói chung và phát triển ngành Công nghiệp điện tử Việt Nam nói riêng. Cần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng cho lĩnh vực công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, khuyến khích áp dụng mô hình đào tạo liên kết 3 bên (doanh nghiệp – viện, trường – cơ quan quản l Nhà nước) để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo yêu cầu của các doanh nghiệp. Xây dựng các chương trình liên kết, kênh thông tin giữa các doanh nghiệp quốc tế với các doanh nghiệp công nghệ hỗ trợ trong nước nhằm góp phần tích cực đẩy mạnh đầu tư và chuyển giao công nghệ, mô hình quản lý, nghiên cứu – phát triển sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghệ thông tin Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành công nghệ thông tin với các quy mô, loại hình khác nhau, từ tư vấn giải pháp đến các sản phẩm phần mềm trọn gói. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất phát triển gia công phần mềm và triển khai dịch vụ sang sản xuất phần mềm và các sản phẩm công nghệ - điện tử. Đồng thời, phát triển mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu cho ngành công nghiệp công nghệ thông tin và điện tử, đối với thị trường trong nước: Tăng cường công tác khảo sát, đánh giá nhu cầu về sử dụng sản phẩm ngành công nghệ thông tin trong cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Xây dựng cơ chế khuyến khích các tổ chức, cơ quan Nhà nước sử dụng các sản phẩm phát triển trong nước; Đối với thị trường xuất khẩu: Từng bước xây dựng chương trình quảng bá hình ảnh sản phẩm công nghệ và các giải pháp công nghệ có xuất xứ tại Việt Nam tại các thị trường nước ngoài. Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế, xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường độc lập hoặc trong khuôn khổ chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp hoặc các trung tâm thương mại ở nước ngoài để tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu của thị trường, quảng bá sản phẩm, thương hiệu và ký kết hợp đồng, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. 654 5.2. ết luận Với bối cảnh cách mạng công nghệ lần thứ 4 đang rộng khắp, các doanh nghiệp công nghệ thông tin đang đứng trước những cơ hội lớn, những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, những thách thức của các doanh nghiệp công nghệ thông tin cũng không nhỏ, vì vậy, để đồng hành cùng doanh nghiệp và giúp các doanh nghiệp công nghệ thông tin tận dụng lợi thế của các FTA, các bộ, ngành cần có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt hơn cơ hội từ thị trường bên ngoài; ứng phó với các hàng rào kỹ thuật khi thuế quan được hạ thấp theo các cam kết trong các FTA. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo FTA tổng cục thống kê 2018 2. Báo cáo ngành Công nghệ thông tin 2019, Bộ Thông tin và Truyền thông. 3. Các cam kết về thương mại hàng hóa trong các FTA Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán, Bộ Công Thương (2019) 4. Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính (2018), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2017, “Thực hiện các cam kết thuế quan trong các hiệp định thương mại tự do giai đoạn 2018 - 2022 và phát triển kinh tế ngành”; 5. TTXVN (2019), Doanh nghiệp và FTA (https://bnews.vn) 6. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2015), Sách Tài chính Việt Nam năm 2014 - 2015, NXB Tài chính; 7. Đức Dũng (2016), Tham gia các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới mở ra không gian phát triển cho kinh tế Việt Nam, bnews.vn; 8. Bạch Huệ (2019), EVFTA: Đón dòng vốn châu Âu, nhiều ngành hưởng lợi (TapchiTaichinh.vn) 9. Lê Huy Khôi (2019), Tác động của các FTA thế hệ mới tới tăng trưởng kinh tế - xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) 10. Nguyễn Thành Hưng (2014), Xây dựng Việt Nam thành một nước sản xuất lớn về thiết bị điện tử vào năm 2030, Bộ Thông tin và Truyền thông, 2014 11. Đỗ Ngọc Trâm (2019), Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế thương mại Việt Nam, Học viện Ngân hàng, Tạp chí Tài chính 12. Lê Quang Thuận (2019), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam, Tạp chí Tài chính; 13. 14.
File đính kèm:
- co_hoi_va_thach_thuc_cua_cac_fta_moi_cho_nganh_cong_nghe_tho.pdf