Cơ hội, thách thức và một số giải pháp đối với Việt Nam khi tham gia các FTA thế hệ mới
Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt nam đã tích cực hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Theo đó, có nhiều vấn đề Việt nam đang và sẽ tiếp
tục triển khai, trong số đó có các FTA. So với các FTA truyền thống mà Việt nam đã từng
tham gia, CPTPP và FTA Việt Nam-EU (EVFTA), theo dự kiến sẽ có hiệu lưc từ tháng
7/2020. Đây là 02 FTA thế hệ mới, có nhiều điểm khác biệt so với các FTA truyền thống. Hôi
nhập quốc tế không chỉ bó h p trong các liên kết thương mại, mà còn chuyển sang các vấn đề
khác cũng như chuyển giao công nghệ, đấu thầu, lao động, mua sắm Chính phủ, v.v Điều
đó đòi hỏi các quốc gia tham gia phải có cơ chế, chính sách mới, mang tính đột phá. Chỉ có
như vậy, quốc gia mới có thể tham gia đúng cam kết, tận dụng tốt cơ hội và không mất uy tín
trong cuộc chơi chung và Việt nam không phải là ngoại lệ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội, thách thức và một số giải pháp đối với Việt Nam khi tham gia các FTA thế hệ mới
kinh tế đối với phát triển kinh tế- xã hội , nhiều rào cản về điều kiện kinh doanh chậm dỡ b và do đó dẫn đến sự méo mó trong nền KTTT và các nhà kinh doanh khó dự đoán được các biến động, thay đổi do Nhà nước gây ra. Với những tồn tại này, mà cho đến nay nhiều nước trong đó có Hoa Kỳ, EU chưa công nhận Việt nam có một nền KTTT đầy đủ. Thứ hai, mặc d hệ thống luật pháp, ch nh sách của Việt nam đã được rà soát, xây dựng mới và t ng bước hoàn thiện nhưng nhìn chung luật pháp, ch nh sách của Việt nam vẫn tồn tại ở những điểm (9 không) sau đây: Không đầy đủ, không đồng bộ, không nhất quán, không ổn định, không minh bạch, không khả thi, không tiên liệu trước được, không hiệu lực và không hiệu quả (Đỗ Đức Bình, 2016). Thêm vào đó, hiện còn tồn tại không t điều kiện kinh doanh bất hợp l , gây cản trở đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, cần sớm được dỡ b . Đây ch nh là một trong những nguyên nhân gây bất lợi cho Việt nam khi va chạm và giải quyết các vụ tranh chấp và kiện quốc tế.; Thứ ba, nhận thức về hội nhập KTQT, về sự tham gia các tổ chức kinh tế thương mại khu vực và toàn cầu và các FTA, chưa thật đầy đủ và vẫn còn có sự gò bó về “tư duy, quan điểm”. Đổi mới tư duy vẫn chưa thực sự mang t nh hệ thống, còn mang t nh ch p vá. Vẫn còn một bộ phận không nh cán bộ, doanh nghiệp và người dân còn “thờ ơ”, “chậm trễ”, thiếu “sẵn sàng” chủ động trong đổi mới và hội nhập. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do công tác phổ biến thông tin của Nhà nước yếu; do doanh nghiệp không được tham gia tham vấn vào các nội dung đàm phán; do doanh nghiệp không t ch cực đổi mới, chưa chủ động tìm kiếm thông tin và v.v 368 Thứ tư, hạn chế, bất cập trong tư duy, nhận thức về nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và hàng hoá của Việt nam. Mặc d trong vài năm gần đây, năng lực cạnh tranh đã được cải thiện, nhưng vẫn ở trình độ thấp so với nhiều nước trong ASEAN nói riêng. Điều quan trọng là năng lực thể chế và năng lực công nghệ chậm được cải thiện, chưa tạo ra môi trường thực sự thuận lợi cho các tưởng sáng tạo công nghệ phát triển và chưa hấp dẫn trong thu hút công nghệ hiện đại. Thể chế chưa đủ tầm để ngăn chặn và x l triệt để tình trạng tham nh ng, hối lộ, sách nhiễu và nhiều tiêu cực khác gây ra không t bức xúc, nhức nhối trong xã hội và dân chúng. Không t chủ trương, ch nh sách đúng nhưng không được các cơ quan công quyền thực thi hoặc thực thi méo mó do lợi ch nhóm, lợi ch cá nhân chi phối. Thứ năm, chưa xây dựng được ngành kinh tế m i nhọn, chưa phát triển tốt ngành công nghiệp phụ trợ, chưa có nhiều tập đoàn kinh tế, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế tư nhân thực sự h ng mạnh, có khả năng cạnh tranh cao so với nhiều tập đoàn trong khu vực và toàn cầu để tận dụng tốt và hiệu quả các cơ hội của hội nhập, trong đó có các FTA đã, đang và sẽ thực thi. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, bất cập trên một phần là do việcvận dụng các kinh nghiệm quốc tế thành công chưa thực sự khách quan, khoa học, còn thiếu những điều kiện đảm bảo để vận dụng các kinh nghiệm này, còn có biểu hiện áp đặt chủ quan không tuân thủ quy luật, nguyên t c của thị trường và hội nhập. Mặt khác, do công tác tuyên truyền, phổ biến các thông tin về đàm phán, mở c a hội nhập và nâng cao năng lực, k năng trong hội nhập quốc tế không kịp thời, không đầy đủ, kém hiệu quả; Việt nam chưa t ch cực cải cách ch nh mình về các mặt; Việc đánh giá kết quả cải cách, đổi mới và phát triển, không nên ch so năm sau với các năm trước đó để thấy thành t ch, mà phải so với các quốc gia khác trong khu vực và thế giới để thấy mức độ phát triển, tụt hậu của mình; Nhiều Bộ, ngành, địa phương chưa cụ thể hóa hoặc triển khai chưa hiệu quả chiến lược tổng thể về hội nhập KTQT của quốc gia; Đội ng nguồn nhân lực nước ta đang thiếu những người “có tầm”, “có tâm”, “có tr tuệ” l ng nghe nghiêm túc và tiếp thu có hiệu quả các kiến phản biện của các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân. Bên cạnh đó, lòng tin của người dân và các nhà đầu tư đối với một số nhà lãnh đạo và cơ quan công quyền bị suy giảm so với trước, phải thẳng th n nhìn thẳng vào sự thật để th a nhận rằng các lỗi trên thuộc về tư duy và lỗi mang t nh hệ thống, chứ không phải lỗi cục bộ. 5. Một số giải pháp để Việt nam hội nhập, tham gia và tận dụng có hiệu quả các FTA thế hệ mới Tham gia các FTA thế hệ mới và các FTA truyền thống, nếu không t ch cực đổi mới và t ch cực cải cách nhanh, toàn diện về các mặt thì không thể tận dụng được cơ hội và rủi ro, tổn thất sẽ khó tránh kh i trước sức ép cạnh tranh của các đối tác. Vì vậy, để có thể tham gia tốt, hiệu quả, Việt nam cần thực hiện các giải pháp sau: Một là, đổi mới mạnh mẽ hơn trong hợp tác và phát triển. L luận và thực tiễn đã ch ra rằng không có cái gì là cố định, đứng yên mà luôn luôn vận động, trong đó có hợp tác quốc tế không phải là ngoại lệ. Vì vậy, Việt nam cần t nh toán, cân nh c và vận dụng tốt quy luật này. Trên thực tế, nền kinh tế Việt nam trong những năm qua quá phụ thuộc vào một số t, 369 thậm ch một thị trường nên rủi ro không nh và khó lường. Vì vậy, một khi Việt nam đã tham gia 16 FTA, trong đó có 02 FTA thế hệ mới , cần phải thực hiện các biện pháp mạnh mẽ hơn trong hợp tác, tận dụng các cơ hội về thương mai, đầu tư ..t các đối tác chiến lược, c ng như các đối tác là thành viên trong các FTA (đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế phát triển, có khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường); cần mở rộng, phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nạm với các nước lớn, nước phát triển (nước công nghiệp) ở trong và ngoài khu vực như: M , Canada, Úc, Niu zi land, EU, LB Nga, Ấn Độ , Trung Quốc,.Để th ch ứng với bối cảnh mới của phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, về hợp tác và phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng Việt nam cần phát triển quan hệ đối tác chiến lược theo hướng vẫn giữ nguyên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung quốc, nhưng Việt Nam sẽ giữ vị tr trung lập về an ninh với Trung quốc. Đồng thời, Việt nam phát triển quan hệ đối tác toàn diện với M , về thực chất phải ngang bằng quan hệ với Trung quốc. Tiếp tục xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với các thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc như Nga, Anh, Pháp ở mức ngang với quan hệ với Trung quốc và M . Bên cạnh đó, các nước lớn như Nhật Bản, Ấn độ, Đức c ng phải phát triển và tận dụng tốt quan hệ đối tác chiến lược (3; Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay”, ĐH. KTQD. HN.2014). Hai là, phải thực sự coi trọng và làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và nâng cao kỹ năng trong hội nhập KTQT gắn với yêu cầu phát triển bền vững, phát triển xanh. Hội nhập, trong đó có tham gia 16 FTA là sự nghiệp của toàn dân, của toàn dân tộc. Vì vậy, việc phổ biến, cập nhật các kiến thức này phải được tiến hành đối với cả cấp lãnh đạo, quản l và những người tham gia trực tiếp vào quá trình này như các nhà hoạch định ch nh sách, các nhà quản l doanh nghiệp, người lao động và người dân, phải làm cho mọi người hiểu rõ hội nhập có nhiều cơ hội thách thức nếu chúng ta cải cách nâng nội lực lên. Tuy nhiên, không được quá lạc quan với cơ hội, mà phải đổi mới để tận dụng tốt cơ hội, tìm cách tạo ra cơ hội để phát triển nhưng c ng không được phép quá “sợ” thách thức mà chần ch , do dự trong các hoạt động đổi mới, cải cách. Ch có như vậy, mới có những ch nh sách, biện pháp th ch hợp để tận dụng nhằm tạo đà, động lực mới cho phát triển. Ba là, tạo cơ chế, chính sách mới phát huy tối ưu các lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Muốn vậy, cần tận dụng tốt các cơ hội do hợp tác với các đối tác trong các FTA thế hệ mới và các FTA truyền thống để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế sang chú trọng theo chiều sâu (hiệu quả, chất lượng tăng trưởng). Chú trọng tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, chế biến và thu hút đầu tư nước ngoài có lựa chọn, có điều kiện, đồng thời c ng phải chú trọng mô hình tiêu d ng hiệu quả. Thực hiện có hiệu quả và kịp thời trong việc tháo gỡ ba nút th t cho doanh nghiệp, đó là thủ tục thuế, hải quan, sự điều hành của các cơ quan công quyền và cạnh tranh bình đẳng. Muốn vậy, bên cạnh việc xây dựng mới luật pháp, ch nh sách, phải tiếp tục rà soát một cách triệt để hệ thống pháp luật hiện hành, s a đổi bổ sung những 370 điều còn bất cập, cần tạo cơ chế thuận lợi để tăng cường sự tham vấn, tham gia của các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân ngay t khâu soạn thảo các văn bản pháp luật, xây dựng các nội dung, phương án đàm phán quốc tế Bốn là, tiếp tục đổi mới chính sách thu hút FDI theo hướng không quá nhấn mạnh số lượng mà là chất lượng, thu hút có điều kiện về cả kinh tế, xã hội và môi trường. Chú trọng thu hút FDI của các đối tác chiến lược, các TNC của các quốc gia có nền kinh tế phát triển (nước công nghiệp) trong CPTPP, trong EVFTA (đặc biệt là các nước phát triển thuộc EU) và cần có cơ chế, ch nh sách khuyến kh ch họ vào phát triển công nghiệp hỗ trợ công nghiệp chế tạo, chế biến nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao cho Việt nam và chuyển giao công nghệ có hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước. Điều ch nh và quy định chi tiết, cụ thể những lĩnh vực khuyến kh ch thu hút FDI và các ưu đãi đầu tư. Theo đó, cần thực hiện ch nh sách ưu đãi đặc biệt dành cho các đối tác đầu tư chiến lược (các TNC của các quốc gia có trình độ phát triển cao-top 500 TNC mẹ để có công nghệ nguồn) với sự cam kết thực sự của Nhà nước. Không ưu đãi đối vơi tất cả các nhà đầu tư mà phải tập trung nhiều hơn vào những đối tác có công nghệ hiện đại, công nghệ “xanh”, có trình độ quản l tiên tiến (Đỗ Đức Bình; 2019). Đón b t tốt các FDI thế hệ mới và các cơ hội do các Hiệp định mà Việt nam tham gia và có hiệu lực để thu hút đầu tư và công nghệ t các quốc gia có nền kinh tế phát triển, nhằm hướng vào thực hiện mục tiêu, Việt nam sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, không tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Ban hành chiến lược, ch nh sách thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam xúc tiến và mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Bên cạnh thu hút FDI, cần có cơ chế ch nh sách hấp dẫn khuyến kh ch, thúc đẩy các DN Việt Nam mở rộng đầu tư ra nước ngoài.Muốn vậy, phải có chiến lược, ch nh sách th ch hợp và có hiệu quả nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam xúc tiến và mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, chiến lược , ch nh sách này, cần hướng vào thực hiên tốt các vấn đề sau đây: xác định đúng các lĩnh vực m i nhọn, các doanh nghiệp chủ đạo để hỗ trợ, thúc đẩy và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài; Có ch nh sách hỗ trợ các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế tư nhân; nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến , mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài; Thực hiện quyết liệt và hiệu quả việc rà soát để sớm kh c phục các rào cản đối với các lĩnh vực ưu tiên và các doanh nghiệp này. Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả và năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong nền KTTT và hội nhập quốc tế. Cơ chế, ch nh sách d có tốt, có hay đến đâu nhưng nếu không có người đứng đầu “có tầm”, “có tâm”, biết l ng nghe kiến phản biện khoa học của các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân để điều ch nh kịp thời thì ch nh sách đó c ng không thể thực thi tốt và không thể đi vào cuộc sống. Vì vậy, trong bối cảnh mới, đặc biệt là Việt nam tham gia các FTA thế hệ mới và thực thi các FTA truyền thống, cần phải xây dựng cho được một Nhà nước thực sự là Nhà nước pháp quyền. Tức là Nhà nước thực hiện việc quản l , điều hành đất nước và nền KTTT chủ yếu bằng luật pháp và các ch nh sách vĩ mô. Sự can thiệp của Nhà nước phải tuân thủ 371 nguyên t c thị trường và cam kết hội nhập, tức là sự can thiệp và quản l phải theo yêu cầu phát triển, tạo điều kiện cho phát triển chứ không phải tuỳ theo năng lực của mình để quản l . Theo đó, mọi sự quản l , kiểm tra, giám sát không gây ảnh hưởng, cản trở các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo thuận lợi hoá cho doanh nghiệp phát triển và sáng tạo. Nhà nước sớm tạo ra cơ chế, ch nh sách để phối kết hợp tốt các nhà đầu tư với các nhà khoa học và các nhà có tưởng sáng tạo và sáng chế. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy của Nhà nước hướng tới mục tiêu tối thượng thực sự là “Nhà nước kiến tạo”, nâng cao và phát triển năng lực của Nhà nước. Với yêu cầu đó, Nhà nước ta phải tiến tới gồm những người có “cái đầu”, có tầm, có tâm, có tr tuệ, có t nh quyết đoán (dựa trên các căn cứ khoa học, khách quan), dám chịu trách nhiệm, có trách nhiệm giải trình, luôn sẵn sàng l ng nghe, tiếp thu có chọn lọc các kiến của các tham vấn, chuyên gia phản biện khoa học để đưa ra các quyết định khách quan, đúng và trúng về các ch nh sách và quản l . Đáp ứng yêu cầu này, cần phải có ch nh sách tuyển dụng và trọng dụng nhân tài một cách minh bạch, khoa học. Tiếp thu sau tuyển dụng, các nhà quản l phải có những cơ chế, ch nh sách cụ thể, rõ ràng, bình đẳng để các nhân tài phát huy được khả năng và tr tuệ của mình vào phát triển kinh tế, xã hội... của đất nước. Đề cao t nh giám sát hai chiều của các cơ quan quản l Nhà nước đối với các doanh nghiệp, các tổ chức và người dân và ngược lại. Đây là thể thế, cơ chế hết sức quan trọng để sớm đảm bảo có được một Nhà nước mạnh, trong sạch, tránh những hành động độc đoán chuyên quyền, lạm dụng để tham nh ng, gây sách nhiễu và tạo ra hàng loạt tiêu cực khác. Ch có như vậy, Việt nam mới tạo dựng lại và tăng lòng tin của các đối tác, các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước vào môi trường kinh doanh và do đó các nhà đầu tư sẽ có những hành động mới để tạo đà và lực mới cho sự phát triển của Việt nam những năm tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo XNK Việt Nam năm 2018- Bộ công thương. NXB công thương, Hà nội- 2018; trang 142. 2. Đỗ Đức Bình (2016), Quan điểm và giải pháp đột phả về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới; tạp ch kinh tế và phát triển số tháng 10. 3. Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thị Thúy Hồng (2019), Quan điểm và giải pháp đột phá để Việt Nam tham gia có hiệu quả CPTPP, FTA thế hệ mới và các FTA truyền thống; Tạp ch Kinh tế và phát triển; số 266. 4. Hoàng Văn Châu (2014). Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP và vấn đề tham gia của Việt nam. 5. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Định hướng và giải pháp phát triển bền vững của Việt nam trong bối cảnh mới của hội nhập quốc tế và biến đổi kh hậu đến năm 2020, tầm nhìn 2030”. Bài: Một số vấn đề mới về hội nhập quốc tế, khu vực và giải pháp đối với Việt nam hướng tới phát triển bền vững. NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2014.
File đính kèm:
- co_hoi_thach_thuc_va_mot_so_giai_phap_doi_voi_viet_nam_khi_t.pdf