Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định trong Công ước Viên 1980 về chuyển rủi ro đối với hàng hóa

như nội hàm chuyển rủi ro đối với hàng hóa, nghĩa vụ khi chuyển rủi ro, thời điểm chuyển rủi

ro qua các điều luật cụ thể. Đồng thời, bài viết so sánh với quy định pháp luật Việt Nam để từ

đó khuyến nghị một số giải pháp thực thi có hiệu quả ở Việt Nam hiện nay.

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 10480
Bạn đang xem tài liệu "Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam

Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: Tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại Việt Nam
gười này nhận hàng tại địa điểm 
kinh doanh của người bán10. 
Ngoài ra, nếu người mua không nhận 
hàng đúng thời hạn trong hợp đồng, khoản 1 
Điều 69 quy định rằng rủi ro sẽ được chuyển 
cho người mua vào thời điểm hàng hóa được 
đặt dưới quyền định đoạt của người mua với 
điều kiện việc người mua không nhận hàng 
cấu thành một vi phạm hợp đồng. 
Như vậy, nguyên tắc chung khi xác định 
thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa 
tại Điều 69 là người mua sẽ phải chịu trách 
nhiệm đối với những rủi ro khi hàng hóa đã 
nằm trong sự kiểm soát của người mua “trên 
thực tế” đối với trường hợp người mua nhận 
hàng đúng thời hạn hoặc nằm trong sự kiểm 
soát của người mua “trên pháp lý” đối với 
trường hợp người mua nhận hàng không 
đúng thời hạn. Liên quan đến trường hợp 
thứ hai, khi người mua vi phạm nghĩa vụ 
nhận hàng, Công ước Viên bảo vệ người bán 
bằng cách quy định thời điểm chuyển rủi ro 
khi người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao 
hàng và thông báo cho người mua được biết, 
hàng hóa lúc này đã thuộc quyền định đoạt 
của người mua về mặt pháp lý. Người bán 
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng được hiểu là 
10  Stallion case, Oberlandesgericht Schleswig-
Holstein, Germany, 29 October 2002. Nguồn truy 
cập: 
html, truy cập ngày 09/09/2020. 
TRẦN VIẾT LONG - BÙI THỊ QUỲNH TRANG
125Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát
việc người bán đã thực hiện mọi biện pháp 
cần thiết để hàng hóa ở “trạng thái sẵn sàng” 
cho phép người mua nhận hàng. Ví dụ, một 
tòa án ở Đức lập luận rằng hàng hóa không 
nằm dưới quyền định đoạt của người mua 
khi chúng được lưu trữ trong kho của nhà sản 
xuất chứ không phải trong kho của người bán 
tại thời điểm thực hiện việc giao hàng theo 
hợp đồng11. 
Thứ hai, trường hợp người mua có nghĩa 
vụ nhận hàng tại một địa điểm khác (khoản 2 
Điều 69) 
Theo quy định tại khoản 2 Điều 69, nếu 
người mua có nghĩa vụ nhận hàng tại một 
địa điểm khác ngoài địa điểm kinh doanh của 
người bán như kho lưu hàng của một bên thứ 
ba hoặc địa điểm kinh doanh của người mua, 
rủi ro đối với hàng hóa sẽ được chuyển giao 
cho người mua tại thời điểm giao hàng nếu 
thỏa mãn các điều kiện sau đây: 
Một là, việc giao hàng thực hiện theo thời hạn 
trong hợp đồng 
Với điều kiện này, người mua sẽ không 
phải chịu trách nhiệm đối với những rủi ro 
phát sinh trước thời điểm giao hàng. Trong 
trường hợp người bán thực hiện nghĩa vụ 
giao hàng trước thời hạn, về nguyên tắc, người 
mua không có nghĩa vụ phải nhận hàng vào 
thời điểm đó. Tuy nhiên, người mua vẫn có 
thể lựa chọn chấp nhận việc giao hàng trước 
thời hạn, theo đó, khi đã chọn nhận hàng thì 
người mua phải chịu rủi ro kể từ thời điểm 
nhận hàng. 
Hai là, hàng hóa phải được đặt dưới quyền 
định đoạt của người mua
Điều kiện này yêu cầu người bán phải thực 
hiện tất cả các biện pháp cần thiết để người 
mua có thể sở hữu hàng hóa. Thông thường, 
người bán phải hoàn thành việc xác định 
hàng hóa được giao hoặc hoàn thành công tác 
chuẩn bị trước khi giao hàng như đóng gói 
đúng quy cách hoặc gửi thông báo cho người 
mua. Ví dụ, nếu hàng hóa đang được lưu tại 
kho hàng của một bên thứ ba thì người bán 
phải hướng dẫn cho người giữ kho về việc 
giao hàng cho người mua hoặc cung cấp cho 
người mua một lệnh giao hàng hiệu quả để 
người mua luôn có thể nhận hàng tại kho. 
11  CLOUT case No. 338 (23 June 1998), Oberlandesgericht 
Hamm, Germany. Nguồn truy cập: 
law.pace.edu, truy cập ngày 09/09/2020. 
Ba là, người mua phải nhận thức được rằng 
hàng hóa đã được đặt dưới quyền định đoạt của họ
Người bán phải đảm bảo người mua biết 
rằng hàng hóa đã được đặt dưới quyền định 
đoạt của người mua bằng cách chuyển giao các 
tài liệu liên quan đến hàng hóa cho người mua 
hoặc gửi cho người mua một thông báo về việc 
giao hàng. Trong trường hợp người bán thông 
báo cho người mua về việc hàng hóa đã được 
đặt dưới quyền định đoạt của họ, một số học 
giả cho rằng thông báo này chỉ có hiệu lực khi 
nó đã “đến tay” người mua, tức là hiệu lực của 
thông báo này phải được xác định theo thuyết 
“tiếp thu”. Một tòa án ở Đức cũng ủng hộ quan 
điểm này khi cho rằng người mua không phải 
chịu trách nhiệm đối với việc hàng hóa bị mất 
do người mua không nhận được thông báo 
của người bán về việc hàng đã được chuẩn bị 
sẵn sàng tại kho Hungary12. Tuy nhiên, đối với 
các hợp đồng có sự thỏa thuận rõ ràng về thời 
gian giao hàng cụ thể thì người bán không cần 
thiết phải đảm bảo thông báo này phải đến tay 
người mua bởi lẽ người mua đã biết và phải 
biết về thời điểm hàng hóa được đặt dưới 
quyền định đoạt của mình. 
2. Thực tiễn áp dụng quy định về chuyển 
rủi ro đối với hàng hóa tại Việt Nam 
 Chuyển rủi ro đối với hàng hóa là một 
trong những vấn đề quan trọng đối với hoạt 
động mua bán hàng hóa nói chung và mua 
bán hàng hóa quốc tế nói riêng, do đó pháp 
luật Việt Nam đã xây dựng hệ thống các quy 
định điều chỉnh vấn đề này trong Luật thương 
mại. Vấn đề chuyển rủi ro đối với hàng hóa 
được quy định cụ thể tại Luật thương mại 
năm 2005 từ Điều 57 đến Điều 61, bao gồm 
các trường hợp sau đây: 
Thứ nhất, chuyển rủi ro trong trường hợp có 
địa điểm giao hàng xác định
Theo quy định tại Điều 57, nếu bên bán 
có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua tại một 
địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc 
hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua 
khi hàng hóa được chuyển cho bên mua hoặc 
người được bên mua ủy quyền đã nhận hàng 
tại địa điểm đó. 
Thứ hai, chuyển rủi ro trong trường hợp 
không có địa điểm giao hàng xác định
12  CLOUT case No. 338 (23 June 1998), Oberlandesgericht 
Hamm, Germany. Nguồn truy cập: 
law.pace.edu, truy cập ngày 09/09/2020. 
CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI HÀNG HÓA TRONG CÔNG ƯỚC VIÊN 1980:...
126 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021
Theo quy định tại Điều 58, nếu hợp đồng 
có quy định về việc vận chuyển hàng hóa 
và bên bán không có nghĩa vụ giao hàng tại 
một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát 
hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên 
mua khi hàng hóa được giao cho người vận 
chuyển đầu tiên. 
Quy định của Luật thương mại năm 2005 
trong hai trường hợp chuyển rủi ro nêu trên 
có sự tương thích với quy định tại Điều 67 của 
Công ước Viên 1980. Tuy nhiên, trong cùng 
điều khoản này, Công ước nhấn mạnh về 
tính đặc định của hàng là điều kiện tiên quyết 
để xác định thời điểm chuyển rủi ro trong 
các trường hợp nêu trên. Trong khi đó, Luật 
Thương mại năm 2005 tách riêng quy định 
về đặc định hàng hóa thành một trường hợp 
chuyển rủi ro riêng biệt. Việc sắp xếp cấu trúc 
này dẫn đến cách hiểu là yếu tố đặc định của 
hàng hóa không liên quan đến hai trường hợp 
chuyển rủi ro tại Điều 67 Công ước Viên 1980 
và Điều 57 của Luật thương mại năm 2005. 
Thứ ba, chuyển rủi ro trong trường hợp giao 
hàng cho người nhận hàng để giao mà không phải 
là người vận chuyển
Theo quy định tại Điều 59 Luật thương 
mại năm 2005, nếu hàng hóa đang được người 
nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là 
người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc 
hư hỏng hàng hóa được chuyển giao cho bên 
mua thuộc một trong các trường hợp sau: 
(i) Khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu 
hàng hóa; (ii) Khi người nhận hàng để giao 
xác nhận quyền chiếm hữu hàng hóa của bên 
mua. 
Thứ tư, chuyển rủi ro trong trường hợp mua 
bán hàng hóa đang trên đường vận chuyển
Theo quy định tại Điều 60 Luật thương 
mại năm 2005, trong trường hợp đối tượng 
của hợp đồng là hàng hóa đang trên đường 
vận chuyển thì rủi ro về mất mát và hư hỏng 
hàng hóa được chuyển cho bên mua kể từ khi 
giao kết hợp đồng. 
Điều 60 nêu trên tương đồng với nguyên 
tắc chung của Công ước Viên 1980 về trường 
hợp chuyển rủi ro đối với hàng hóa đang trên 
đường vận chuyển. Việc xác định thời điểm 
rủi ro được chuyển sang người mua trở nên 
dễ dàng hơn khi gắn liền với thời điểm giao 
kết hợp đồng, tuy nhiên, dưới góc độ thực 
tiễn, quy định này chưa thực sự phù hợp. Bởi 
lẽ, rủi ro có thể phát sinh kể từ thời điểm hàng 
hóa không còn nằm trong tầm kiểm soát của 
người bán, tức là thời điểm hàng hóa được 
người bán giao cho người vận chuyển và rất 
có thể hàng hóa bị hư hỏng trước thời điểm 
ký kết hợp đồng. Công ước Viên đã giải quyết 
trường hợp này bằng một ngoại lệ hồi tố tại 
Điều 68 đã được phân tích ở phần trên. Ngoài 
ra, Luật thương mại năm 2005 cũng bỏ ngỏ 
trường hợp liên quan đến trách nhiệm của 
người bán đối với người mua khi người bán 
biết hoặc phải biết về rủi ro đối với hàng hóa. 
Đây là một lỗ hổng của Luật thương mại Việt 
Nam, người bán không thể được giải phóng 
khỏi trách nhiệm của mình nếu họ đã biết 
tình trạng mất mát hoặc hư hỏng của hàng 
hóa nhưng vẫn im lặng để chuyển giao cho 
người mua. Điều này đi ngược lại với nguyên 
tắc thiện chí của luật hợp đồng. 
Thứ năm, chuyển rủi ro trong các trường hợp 
khác
Theo quy định tại Điều 61, trong trường 
hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 
57, 58, 59 và 60, rủi ro về mất mát hoặc hư 
hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua kể 
từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt 
của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng 
do không nhận hàng. Nhận thấy, quy định 
này của Luật thương mại khá tương đồng với 
Điều 69 của Công ước Viên 1980 khi xác định 
thời điểm chuyển rủi ro dựa trên nguyên tắc 
xác định quyền định đoạt của người mua đối 
với hàng hóa về mặt pháp lý. Tuy nhiên, quy 
định này của Luật thương mại năm 2005 chỉ 
là một trường hợp được quy định tại khoản 1 
Điều 69 của Công ước. 
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam về 
chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong hợp đồng 
mua bán đã có những tiệm cận rất lớn với các 
quy định của Công ước Viên 1980. Tương tự 
Công ước, Luật thương mại không định nghĩa 
cụ thể về khái niệm rủi ro, nhưng thông qua 
cách sử dụng ngôn từ trong các điều luật cho 
thấy văn bản này cũng tiếp cận rủi ro dưới 
dạng những mất mát hoặc hư hỏng đối với 
hàng hóa. Ngoài ra, Luật thương mại cũng xây 
dựng nguyên tắc chung đối với vấn đề chuyển 
rủi ro đối với hàng hóa trên tinh thần bên nào 
có vị thế tốt hơn hoặc chịu trách nhiệm trong 
việc kiểm soát hàng hóa thì bên đó phải gánh 
chịu rủi ro. Luật cũng yêu cầu về tính đặc định 
của hàng hóa khi xác định thời điểm chuyển 
rủi ro trong hợp đồng mua bán. Bên cạnh đó, 
pháp luật Việt Nam cũng bộc lộ một số điểm 
TRẦN VIẾT LONG - BÙI THỊ QUỲNH TRANG
127Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát
hạn chế so với các quy định của Công ước Viên 
1980 về thời điểm chuyển rủi ro. Điều này có 
thể gây khó khăn cho các bên trong quá trình 
áp dụng trên thực tế. Tuy nhiên, đến nay, Việt 
Nam đã là thành viên của Công ước nên Công 
ước trở thành nội luật của Việt Nam và được 
áp dụng cho các quan hệ mua bán hàng hóa 
giữa thương nhân Việt Nam và nước ngoài. 
Điều này sẽ hỗ trợ rất lớn cho các thương nhân 
trong việc phân bổ rủi ro khi tham gia các quan 
hệ mua bán hàng hóa quốc tế. 
3. Một số khuyến nghị 
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc 
tế, điều khoản về chuyển rủi ro đối với hàng 
hóa là một trong những điều khoản quan 
trọng mà các bên cần xem xét kỹ lưỡng khi 
đàm phán và ký kết hợp đồng. Công ước Viên 
1980 là công cụ pháp lý chính điều chỉnh vấn 
đề chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong giao 
dịch mua bán hàng hóa quốc tế nếu được áp 
dụng liên quan đến hợp đồng. Qua phân tích 
các quy định của Công ước Viên 1980 về vấn 
đề chuyển rủi ro và thực tiễn áp dụng tại Việt 
Nam, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến 
nghị nhằm thực thi có hiệu quả các quy định 
ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, mặc nhiên áp dụng Công ước 
Viên 1980 đối với những hợp đồng mua bán 
hàng hóa quốc tế giữa thương nhân Việt Nam 
và thương nhân của một quốc gia thành viên 
Công ước (trừ trường hợp xác định rõ trong 
hợp đồng không áp dụng Công ước). Tuy 
nhiên, Công ước Viên 1980 và pháp luật Việt 
Nam đều tôn trọng nguyên tắc tự do hợp đồng, 
vì vậy, các bên nên thỏa thuận về các vấn đề 
liên quan đến chuyển rủi ro đối với hàng hóa, 
đặc biệt là xác định thời điểm chuyển rủi ro 
cho phù hợp với hoàn cảnh của giao dịch mua 
bán. Điều này đóng vai trò quan trọng, xác 
định thời điểm càng cụ thể thì các rủi ro liên 
quan càng được kiểm soát. 
Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn 
của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, 
bên cạnh Công ước Viên 1980, trong hệ thống 
pháp luật thương mại quốc tế còn tồn tại một 
số văn bản pháp lý được xây dựng từ các tập 
quán thương mại quy định về vấn đề chuyển 
rủi ro đối với hàng hóa như Incoterms. Tuy 
nhiên, Incoterms là tập quán quốc tế, do đó 
các bên phải dẫn chiếu các quy tắc này trong 
hợp đồng thì mới đủ căn cứ xác định để thời 
điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa. 
Thứ ba, trong trường hợp áp dụng các quy 
định của Công ước Viên 1980 để phân bổ rủi ro 
khi có tranh chấp xảy ra, người mua phải xác 
định đúng phạm vi rủi ro đối với hàng hóa mà 
người mua phải gánh chịu. Trong mọi trường 
hợp, người mua chỉ có trách nhiệm đối với 
những rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng về hàng 
hóa do những nguyên nhân khách quan gây 
ra, nếu những thiệt hại đó xuất phát từ hành 
động có chủ đích hoặc sơ suất của người bán 
thì người bán phải gánh chịu mọi trách nhiệm. 
Ngoài ra, theo quy định của Công ước, mỗi 
trường hợp sẽ có những nguyên tắc xác định 
thời điểm chuyển rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, 
các bên cần lưu ý rằng trong hầu hết các trường 
hợp, Công ước đều yêu cầu về tính đặc định 
của hàng hóa khi chuyển rủi ro, trừ trường hợp 
hàng hóa đang trên đường vận chuyển. 
Thứ tư, trong mọi trường hợp khi rủi ro 
đối với hàng hóa đã được chuyển giao cho 
người mua thì người mua phải tiếp tục thực 
hiện nghĩa vụ thanh toán theo quy định của 
hợp đồng. Tuy vậy, nếu người bán có hành 
vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cấu thành vi 
phạm cơ bản theo quy định tại Điều 25 thì 
người mua không mất quyền áp dụng các 
chế tài đối với hành vi vi phạm đó. Cần lưu 
ý rằng, những vi phạm này không phải là 
nguyên nhân gây ra những mất mát hoặc hư 
hỏng đối với hàng hóa. 
Thứ năm, về góc độ doanh nghiệp, cần nắm 
bắt các quy định cụ thể đối với việc chuyển rủi 
ro theo Công ước Viên 1980 để áp dụng hiệu 
quả trong quá trình soạn thảo, đàm phán và 
thực hiện hợp đồng. Đánh giá khả năng thực 
hiện, khả năng rủi ro khi áp dụng Công ước 
này để tránh các thiệt hại và các tranh chấp 
phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động 
kinh doanh liên quan đến pháp luật quốc gia 
và pháp luật quốc tế.
Như vậy, có thể thấy, trong các hoạt động 
thương mại nói chung và thực thi các cam kết 
trong hợp đồng nói riêng thì xác định thời 
điểm chuyển rủi ro đối với các bên đóng vai 
trò hết sức quan trọng. Công ước Viên 1980 và 
việc áp dụng đối với các thương nhân đòi hỏi 
sự tiếp cận phù hợp và sự áp dụng trong hợp 
đồng cần có sự xem xét thận trọng, đánh giá 
sự trách nhiệm cũng như sự ràng buộc ở các 
mức độ khác nhau để phòng ngừa các rủi ro, 
tăng cường sự thiện chí khi thực hiện quyền 
và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng cụ thể./.

File đính kèm:

  • pdfchuyen_rui_ro_doi_voi_hang_hoa_trong_cong_uoc_vien_1980_tiep.pdf