Chuyển dịch cơ cấu lĩnh vực việc làm ở Việt Nam 2 thập kỷ gần đây dưới góc nhìn đoàn hệ
Sử dụng phương pháp phân tích đoàn hệ để tổ chức và phân tích cấu trúc nghề
nghiệp của các cá nhân từ 15 tuổi trở lên dựa trên dữ liệu các cuộc Điều tra mức
sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) từ 1998 tới 2018, kết quả bài viết cho thấy:
(1) Tuy vẫn có những tín hiệu tích cực nhưng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động việc làm theo hướng giảm tỷ trọng trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp,
tăng tỷ trọng trong các ngành công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ ở
nước ta vẫn còn diễn ra khá chậm. (2) Những khác biệt trong phân bố độ tuổi
(hiệu ứng tuổi) qua các giai đoạn (hiệu ứng thời gian) cùng với xu hướng tăng
liên tục độ tuổi trung bình ở các lĩnh vực phản ánh xu hướng “già hóa” độ tuổi
lao động, đặc biệt trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, mà nguyên nhân
bước đầu có thể là do hiệu ứng đoàn hệ khi sự sụt giảm tỷ lệ làm việc trong lĩnh
vực này ngày càng cao hơn ở các thế hệ gần đây hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển dịch cơ cấu lĩnh vực việc làm ở Việt Nam 2 thập kỷ gần đây dưới góc nhìn đoàn hệ
nghiệp - xây dựng có mức tăng cao hơn (tăng 6,4 tuổi, từ 30,6 tuổi ở thời điểm 1998 lên 37,1 tuổi năm 2018). Đặc biệt, khu vực nông - lâm - ngư nghiệp có mức tăng rất cao (tăng 11,2 tuổi, từ 32,5 tuổi ở thời điểm 1998 lên 43,7 tuổi năm 2018), đồng thời đường đại diện có xu hướng thẳng và dốc hơn trong khoảng 10 năm gần đây dự Biểu đồ 3. Độ tuổi trung bình của những người hiện có việc làm theo các lĩnh vực qua các thời điểm từ 1998 đến 2018 (tuổi) Nguồn: Xử lý của tác giả từ kết quả VHLSS 1998 - 2018. . NGUYỄN NGỌC TOẠI – CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LĨNH VỰC VIỆC LÀM 36 báo xu hướng này sẽ còn diễn ra mạnh hơn trong những năm tới. Những kết quả trên cho thấy có những sự khác biệt trong phân bố độ tuổi (hiệu ứng tuổi) qua các giai đoạn (hiệu ứng thời gian) về cơ cấu lĩnh vực việc làm ở Việt Nam trong 20 năm qua. Vậy đâu là những nguyên nhân chính dẫn tới những khác biệt này? Đồng thời, điều này cũng gợi ý về một số câu hỏi khác như: có sự khác biệt nào giữa các thế hệ (hiệu ứng đoàn hệ) về cơ cấu việc làm trong các lĩnh vực, đặc biệt trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp? Nếu có thì do đâu? Và điều này có thể đặt ra những hàm ý gì về mặt chính sách? Chúng tôi sẽ cố gắng trả lời một phần các câu hỏi này trong phần tiếp theo. 3.2. Chuyển dịch cơ cấu lĩnh vực việc làm tại Việt Nam dƣới góc nhìn đoàn hệ Phân tích chi tiết hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu việc làm trong từng lĩnh vực theo các nhóm tuổi tương ứng với từng thời điểm của các cuộc Điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) từ năm 1998 tới 2018, chúng ta sẽ có các bảng theo từng lĩnh vực như bên dưới. Xem xét số liệu Bảng 2 theo các cách khác nhau chúng ta sẽ thấy: (1) Nếu so sánh theo chiều ngang qua các thời điểm từ 1998 đến 2018, dường như có một xu hướng giảm liên tục tỷ lệ làm việc trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp ở 7 nhóm tuổi đầu từ 15-18 đến 39-42. Đồng thời, có một xu hướng ngược lại đối với 8 nhóm tuổi tiếp theo từ 43-46 đến 71+ khi càng tới các thời điểm gần đây thì tỷ lệ làm việc trong lĩnh vực này càng tăng. (2) Nếu so sánh đồng thời theo chiều dọc qua các nhóm tuổi ở từng thời điểm cụ thể và theo chiều ngang qua các giai đoạn từ 1998 đến 2018, có thể thấy xu hướng chuyển dịch các con số bắt đầu từ cao nhất ở các nhóm tuổi trẻ hơn ở những giai đoạn đầu (1998-2002), sang tập trung ở Bảng 2: Cơ cấu nhóm tuổi của những người từ 15 tuổi trở lên trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp ở Việt Nam từ 1998 đến 2018 (%) 1998 2002 2006 2010 2014 2018 15-18 15,9 12,1 9,2 9,3 5,8 4,4 19-22 11,4 10,7 9,6 8,6 7,5 5,3 23-26 8,2 8,3 7,7 7,9 7,2 5,7 27-30 8,1 8,1 6,7 7,9 7,5 7,3 31-34 8,7 8,8 8,2 7,6 7,8 6,6 35-38 9,8 9,5 9,4 8,3 7,8 8,2 39-42 8,4 9,6 9,7 8,9 8,1 7,7 43-46 7,4 9,1 9,4 9,0 8,7 8,3 47-50 5,6 6,9 9,1 8,4 9,0 8,6 51-54 3,7 5,1 6,5 7,5 9,1 8,5 55-58 4,1 3,4 4,7 5,6 6,9 9,0 59-62 3,1 2,8 3,2 4,4 5,8 7,4 63-66 2,2 2,1 2,5 2,2 3,9 5,4 67-70 1,9 1,8 1,8 2,0 1,9 4,0 71+ 1,6 1,8 2,1 2,4 2,8 3,5 Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Xử lý của tác giả từ kết quả VHLSS 1998 - 2018. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 37 những nhóm tuổi ở giữa trong giai đoạn giữa (2006-2010), và cuối cùng là tập trung ở những nhóm tuổi lớn hơn trong giai đoạn gần đây nhất (2014-2018). Phân bố này phản ánh rõ sự thay đổi tỷ lệ làm việc trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp theo từng độ tuổi và giai đoạn khác nhau (hiệu ứng tuổi và thời kỳ). Bên cạnh đó, từ những kết quả trên, có thể thấy những con số cao nhất thường tập trung dọc theo đường chéo chính của bảng bắt đầu bên góc trái từ nhóm tuồi 15-18 tại thời điểm 1998 kéo dài xuống góc phải ở nhóm tuổi cao nhất 71+ ở thời điểm 2018. Những đường chéo song song này (đường bôi đậm và các đường chéo song song với nó) biểu thị cho các đoàn hệ tương ứng tương tự mô hình cấu trúc đoàn hệ trong Hình 1 của Yang và Land (2016). Ở đây, sự phân bố tỷ lệ này có thể gợi ý về một câu chuyện khác, đó là câu chuyện về các đoàn hệ. Hay nói cách khác, sự thay đổi tỷ lệ làm việc trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp ở Việt Nam trong 20 năm qua có thể liên quan tới những khác biệt giữa các đoàn hệ. Lưu ý rằng, các con số thể hiện tỷ lệ theo nhóm tuổi trong Bảng 2 được tính dựa trên tổng số 100% những người từ 15 tuổi trở lên hiện đang làm việc (tại thời điểm mỗi cuộc điều tra) trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Do đó, dữ liệu này chỉ cung cấp một sự hình dung ban đầu vệ sự dịch chuyển theo độ tuổi qua thời gian. Để ước lượng chính xác hơn quá trình chuyển dịch theo các đoàn hệ cần tính lại tỷ lệ này dựa trên tổng số 100% những người hiện đang làm việc (trong tất cả lĩnh vực) theo từng độ tuồi tương ứng tại thời điểm mỗi cuộc điều tra (Bảng 3). Ví dụ, chúng ta xem xét đường chéo được bôi đậm, đường chéo này thể hiện sự thay đổi tỷ lệ làm nông - lâm - ngư nghiệp của đoàn hệ những người sinh trong khoảng thời gian từ 1980-1983 Bảng 3: Tỷ lệ làm việc trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp của những người từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam từ 1998 đến 2018 (%) 1998 2002 2006 2010 2014 2018 15-18 54,1 36,1 25,8 28,7 23,5 16,0 19-22 53,0 43,1 33,2 28,2 28,3 23,5 23-26 52,8 45,7 34,9 30,3 30,2 23,3 27-30 59,3 49,6 39,5 33,3 30,8 27,2 31-34 61,7 53,1 46,0 35,0 33,3 24,5 35-38 63,1 53,0 48,4 37,3 35,3 29,4 39-42 59,6 53,6 48,8 40,6 37,7 29,6 43-46 61,8 55,1 49,2 42,2 42,2 33,0 47-50 61,4 55,2 50,5 43,2 45,2 36,9 51-54 57,5 58,1 48,9 44,0 46,8 40,5 55-58 61,3 57,6 48,3 42,1 43,6 42,3 59-62 56,5 50,1 50,3 46,6 45,0 42,3 63-66 46,4 44,9 41,4 38,2 47,0 43,2 67-70 37,9 39,2 34,6 39,5 35,2 41,8 71+ 17,6 15,8 15,1 14,6 16,0 15,4 Tổng 40,7 34,0 30,3 27,1 26,5 22,2 Nguồn: Xử lý của tác giả từ kết quả VHLSS 1998 - 2018. NGUYỄN NGỌC TOẠI – CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LĨNH VỰC VIỆC LÀM 38 trong 20 năm qua (1998-2018), tức là vào năm 1998 những người thuộc đoàn hệ này sẽ trong độ tuổi từ 15-18 tuổi và tỷ lệ làm trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp của họ chiếm 54,1% trong tổng số 100% những người cùng độ tuổi có việc làm tại thời điểm 1998 (hay nói cách khác, tại thời điểm năm 1998, hơn ½ số người thuộc đoàn hệ sinh từ 1980-1983 làm việc trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, còn lại làm trong các lĩnh vực khác), 4 năm sau (tức là vào năm 2002) họ sẽ trong độ tuổi 19-22 và lúc này tỷ lệ làm nông nghiệp của họ giảm xuống còn 43,1%. Tương tự như vậy, qua mỗi giai đoạn 4 năm (tương đương với các thời điểm 2006, 2010, 2014 và 2018) tuổi của họ sẽ tăng lên lần lượt 4 tuổi và tỷ lệ làm nông nghiệp của họ tương ứng với các ô ở các nhóm tuổi tăng dần qua mỗi thời điểm. Bằng cách tương tự, chúng ta sẽ tính toán được đối với các đoàn hệ còn lại (các đường chéo song song với đường bôi đậm này) và so sánh chúng với nhau. Kết quả Bảng 3 cho thấy dường như có một xu hướng tập trung các con số cao hơn (tỷ lệ làm nông nghiệp) ở các đoàn hệ ở giữa (các đường chéo ở giữa) và giảm dần ở hai đầu (các đường chéo góc trên bên phải và góc dưới bên trái – đại diện cho các đoàn hệ trẻ nhất và già nhất). So với lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, phân bố tỷ lệ theo nhóm tuổi trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng (Bảng 4) và thương mại - dịch vụ (Bảng 5) không cho thấy sự khác biệt đáng chú ý giữa các đoàn hệ (không phân bố tập trung theo các đường chéo của bảng như phân tích ở trên). Đối với khu vực công nghiệp - xây dựng (Bảng 4), theo thời gian (1998- 2018), mặc dù vẫn có sự sụt giảm lớn tỷ lệ làm việc ở các nhóm tuổi từ 15- 26 và tăng tỷ lệ ở các nhóm tuổi từ 27 đến ngoài 60 nhưng xu hướng chính Bảng 4: Cơ cấu nhóm tuổi của những người từ 15 tuổi trở lên trong lĩnh vực công nghiệp-xây dựng ở Việt Nam từ 1998 đến 2018 (%) 1998 2002 2006 2010 2014 2018 15-18 11,0 8,7 7,5 5,4 3,7 2,5 19-22 17,8 15,0 14,8 9,6 9,6 6,4 23-26 16,1 14,7 14,4 14,0 11,9 11,8 27-30 10,7 11,2 10,6 12,4 13,0 11,9 31-34 9,6 10,5 9,6 11,2 12,0 11,9 35-38 9,5 10,5 10,1 10,0 11,5 12,3 39-42 8,5 10,3 9,8 10,6 10,7 11,6 43-46 6,2 7,9 7,4 8,8 9,1 9,9 47-50 4,2 5,1 6,1 6,7 7,6 8,2 51-54 2,0 2,7 4,2 4,6 5,1 5,6 55-58 1,1 1,4 2,4 2,9 2,6 4,3 59-62 1,3 0,8 0,9 1,6 1,9 1,9 63-66 0,7 0,6 0,7 0,7 0,7 1,2 67-70 0,7 0,4 0,8 0,4 0,3 0,4 71+ 0,6 0,3 0,6 0,8 0,4 0,3 Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Xử lý của tác giả từ kết quả VHLSS 1998 - 2018. . TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 39 vẫn tập trung hầu hết trong độ tuổi từ 23-42. Trong khi đó, xét về cơ cấu độ tuổi, thương mại - dịch vụ có lẽ là lĩnh vực ít có sự thay đổi nhất khi hầu như luôn có một mức độ tập trung cao ở những nhóm tuổi từ 27 đến khoảng 50 tuổi trong suốt 20 năm qua (Bảng 5). So với khu vực công nghiệp - xây dựng, phạm vi tập trung độ tuổi làm việc trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ là rộng hơn, điều này là hợp lý bởi tính chất công việc ở 2 lĩnh vực này là tương đối khác nhau với mức độ đòi hỏi về sức khỏe trong khu vực công nghiệp - xây dựng là cao hơn nên độ tuổi ngoài 40 đã bắt đầu không còn phù hợp. Như vậy, có vẻ như sự khác biệt giữa các đoàn hệ (hiệu ứng đoàn hệ) chỉ xảy ra trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, trong khi hai lĩnh vực còn lại mới chỉ cho thấy những sự khác biệt về độ tuổi (hiệu ứng tuổi) và theo thời gian (hiệu ứng giai đoạn). 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT BƢỚC ĐẦU VÀ THẢO LUẬN Những kết quả phân tích bước đầu về quá trình chuyển dịch cơ cấu việc làm theo các lĩnh vực ở nước ta khoảng 2 thập niên gần đây cho thấy, vẫn có những tín hiệu tích cực khi tỷ trọng việc làm trong khu vực công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ liên tục tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trong hai lĩnh vực này còn chậm. Đồng thời, mặc dù tỷ trọng việc làm trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng giảm mạnh trong suốt 20 năm qua nhưng cho đến nay vẫn là khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất. Bên cạnh đó, sự dịch chuyển các đường cong biểu diễn cơ cấu lao động theo nhóm tuổi ở cả 3 lĩnh vực tương ứng từ độ tuổi nhỏ hơn sang độ tuổi lớn hơn và tuổi lao động trung bình liên tục tăng theo thời gian từ 1998 đến 2018 phản ánh xu hướng Bảng 5. Cơ cấu nhóm tuổi của những người từ 15 tuổi trở lên trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ ở Việt Nam từ 1998 đến 2018 (%) 1998 2002 2006 2010 2014 2018 15-18 6,5 5,0 3,6 2,6 1,8 1,9 19-22 9,2 8,5 7,8 7,1 5,5 4,6 23-26 9,7 9,8 11,1 9,8 10,2 8,9 27-30 10,2 10,4 8,3 10,8 11,6 10,4 31-34 9,9 10,8 10,2 10,0 11,8 11,7 35-38 11,8 12,5 10,7 12,3 10,3 10,2 39-42 11,4 12,1 10,7 10,8 10,5 9,9 43-46 9,4 10,7 10,8 10,3 9,2 10,4 47-50 5,8 8,1 10,0 8,9 8,8 8,8 51-54 4,9 5,0 7,1 7,2 7,5 7,6 55-58 4,5 2,5 3,9 4,9 6,1 6,9 59-62 2,4 2,1 1,9 2,4 3,7 4,5 63-66 1,9 1,2 1,7 1,2 1,3 2,2 67-70 1,5 0,7 0,9 0,8 0,9 0,8 71+ 1,1 0,7 1,3 0,9 0,9 1,2 Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nguồn: Xử lý của tác giả từ kết quả VHLSS 1998 - 2018. NGUYỄN NGỌC TOẠI – CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LĨNH VỰC VIỆC LÀM 40 “già hóa” của lực lượng lao động, đặc biệt trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 10 năm gần đây. Những kết quả này cho thấy có những sự khác biệt trong phân bố độ tuổi (hiệu ứng tuổi) qua các giai đoạn (hiệu ứng thời gian) về cơ cấu lĩnh vực việc làm. Đồng thời, phản ánh thực trạng sụt giảm tỷ lệ làm việc trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp ngày càng cao hơn ở các thế hệ gần đây hơn (hiệu ứng đoàn hệ). Phương pháp đoàn hệ dựa trên các mô hình tổ chức dữ liệu theo bảng chéo giúp nhà nghiên cứu có cái nhìn trực quan và phần nào phán đoán được hiệu ứng từng nhân tố (tuổi - thời kỳ - đoàn hệ) trong xu hướng chuyển dịch chung đối với từng lĩnh vực việc làm. Tuy nhiên, vì nó chưa cung cấp được các phân tích dựa trên mô hình hóa dữ liệu một cách nghiêm ngặt nên cũng khó biện minh cho bất kỳ kết luận nào. Do vậy, cần xây dựng các mô hình thống kê phù hợp với các phân tích APC mà phạm vi bài viết này chưa đề cập tới. Với khả năng tách được các tác động riêng biệt của từng yếu tố vốn có mối quan hệ tuyến tính, các mô hình thống kê APC hiện nay đã được chứng minh là khả thi mà chỉ thời gian trước đây còn được xem là một khó khăn không thể vượt qua. Trên cơ sở áp dụng phương pháp phân tích đoàn hệ, bài viết cung cấp một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lĩnh vực việc làm cũng như những hướng nghiên cứu thực nghiệm về các chủ đề có liên quan dựa trên việc phân tích các cơ sở dữ liệu khác nhau hiện nay. Trong đó, các nguồn dữ liệu điều tra quốc gia đang ngày càng dễ tiếp cận và có chất lượng hơn nhờ việc không ngừng được cải thiện về mặt phương pháp và tổ chức điều tra có hệ thống của Tổng cục Thống kê trong thời gian gần đây. CHÚ THÍCH (1) Đề tài cấp cơ sở năm 2020 do tác giả làm chủ nhiệm, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ là cơ quan chủ trì. (2) Điều tra mức sống hộ gia đình, Điều tra mức sống dân cư, Khảo sát mức sống hộ gia đình, hay gọi chung là VHLSS (Vietnam Household Living Standard Survey). (3) Thực tế phương pháp APC có thể được sử dụng cho cả các dữ liệu theo thời gian với khoảng cách không đều nhau nhưng sẽ phải áp dụng thêm nhiều thủ tục tính toán phức tạp hơn, do vậy thông thường các nhà nghiên cứu thường chọn cách như chúng tôi đang làm, xem thêm (Fu, 2018). (4) Ngoài 3 lĩnh vực là nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ, còn có những lĩnh vực khác như: hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ, quản lý nhà nước, y tế, giáo dục Tỷ trọng từng lĩnh vực được tính trên tổng 100% của tất cả lĩnh vực. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 11 (267) 2020 41 TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Frost, Wade Hampton. 1995. “The Age Selection of Mortality from Tuberculosis in Successive Decades”. American Journal of Epidemiology 141(1):4-9. 2. Fu, Wenjiang. 2018. A Practical Guide to Age-Period-Cohort Analysis: The Identification Problem and Beyond. CRC Press. 3. Glenn, Norval D. 2005. Cohort Analysis. 2nd ed. Thousand Oaks, Calif: Sage Publications. 4. Mason, William M. and Stephen E. Fienberg. 1985. Cohort Analysis in Social Research: Beyond the Identification Problem. New York: Springer New York. 5. O’Brien, Robert. 2014. Age-Period-Cohort Models: Approaches and Analyses with Aggregate Data. CRC Press. 6. Tổng cục Thống kê. 2019. Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2018. Hà Nội: Nxb. Thống kê. 7. Yang, Yang and Kenneth C. Land. 2016. Age-Period-Cohort Analysis: New Models, Methods, and Empirical Applications. Chapman and Hall/CRC. 8. Zeng, Yi, Kenneth C. Land, Danan Gu and Zhenglian Wang. 2014. Household and Living Arrangement Projections. Vol 36. Dordrecht: Springer Netherlands.
File đính kèm:
- chuyen_dich_co_cau_linh_vuc_viec_lam_o_viet_nam_2_thap_ky_ga.pdf