Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant

 Lý luận nhận thức Tây Âu giai đoạn trung cổ cho tới thế kỷ XVII đã lâm vào

khủng hoảng do không đánh giá đúng vai trò của con người trong quá trình nhận thức;

gán cho lý tính của con người quá nhiều thẩm quyền, cho rằng lý tính có thể nhận thức

được cả những thực thể như vũ trụ, linh hồn bất tử và thượng đế; thậm chí còn đưa

nhận thức của con người vào ngõ cụt của chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý.

Trước bối cảnh đó, nhà triết học cổ điển người Đức Immanuel Kant đã chủ trương xây

dựng một nền triết học mới thông qua cách tiếp cận phê phán, đó là phê phán lý tính

thuần túy, đưa lý tính con người về đúng giới hạn của nó. Để làm sáng tỏ điều này, bài

viết tập trung phân tích quan điểm của Kant trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng

trong lý luận nhận thức ở Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII và nêu bật các giai đoạn nhận thức

của con người theo quan điểm của ông. Qua đó làm rõ giới hạn nhận thức ở con người

mà Kant đã xác định.

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant trang 1

Trang 1

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant trang 2

Trang 2

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant trang 3

Trang 3

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant trang 4

Trang 4

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant trang 5

Trang 5

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant trang 6

Trang 6

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant trang 7

Trang 7

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 4900
Bạn đang xem tài liệu "Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant

Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant
ông cảm thấy 
thỏa mãn trong thế giới của cảm giác. Lý 
trí con người không cam chịu như thế, nó 
muốn tìm lời giải đáp cho sự hiện hữu của 
vạn vật. Tức là lý tính con người không 
bằng lòng với thế giới hữu hình chỉ gồm 
toàn những hiện tượng, nó muốn làm sáng 
tỏ “cái gì đã kết nối toàn thể vũ trụ ở bên 
trong nó?”. 
Con người trong triết học của Kant 
không phải là một thực thể thụ động bị chi 
phối bởi các thế lực siêu nhiên như thần 
thánh hay chúa trời, mà chính họ là chủ thể 
của quá trình nhận thức. Đây cũng là điểm 
xuất phát để Kant nghiên cứu về con người. 
2. Quá trình nhận thức của con người 
với tư cách là chủ thể nhận thức 
Kant cho rằng quá trình nhận thức của 
con người với tư cách là chủ thể nhận thức 
sẽ trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ 
nhất là trực quan cảm tính, giai đoạn thứ 
hai là đi từ trực quan cảm tính đến giác 
tính (lý trí), giai đoạn thứ ba là lý tính. 
Trực quan cảm tính 
Trong giai đoạn đầu tiên của nhận 
thức - cảm tính, để nhận thức một cái gì 
đó trước hết ta cần năm giác quan, Kant 
gọi là cảm năng. Cảm năng có thể được 
các đối tượng kích động và Kant gọi là 
“tính thụ nhận”. Các sự vật tác động vào 
giác quan của con người và con người 
nhận được là nhờ trực quan. Nếu không có 
trực quan sẽ không có tri thức về đối 
tượng. Bản chất của trực quan là cảm tính 
nhưng nó không đồng nhất với nhau. Nếu 
trực quan được hình thành từ kinh nghiệm 
thì cảm tính được hình thành từ cảm giác 
hậu nghiệm và các trực quan tiên nghiệm. 
Cảm tính là khả năng thâu nhận biểu tượng 
Chñ thÓ nhËn thøc trong triÕt häc 15 
và phương thức để đối tượng được đưa đến 
cho ta và cũng từ đó mới có trực quan. 
 Trực quan có hai dạng: Trực quan 
kinh nghiệm và trực quan thuần túy. Trực 
quan kinh nghiệm là những trực quan có 
quan hệ với các đối tượng thông qua cảm 
giác, nó đưa lại cho ta những tri thức về 
tính vật chất của hiện tượng. Trực quan 
thuần túy là trực quan trong đó không có 
đối tượng của cảm giác. Hình thức của 
dạng trực quan này có sẵn trong ý thức 
của con người dưới dạng tiên nghiệm - đó 
là không gian và thời gian. 
Theo Kant, không gian và thời gian là 
những hình thức chủ quan của ý thức con 
người và nó có tính chất tiên nghiệm (có 
trước kinh nghiệm): “Không gian không 
phải là một khái niệm thường nghiệm 
được rút ra từ khái niệm bên ngoài 
Không gian không phải là khái niệm suy 
lý - hay như người ta quen nói - không 
phải là một khái niệm phổ biến về các 
quan hệ của sự vật nói chung, mà là một 
trực quan thuần túy” (I. Kant, 2004, 
tr.144-145). Không gian không phải là 
một quan niệm thường nghiệm, do kinh 
nghiệm tạo ra bởi vì bất cứ quan niệm nào 
của con người về sự vật đều giả thiết sự 
vật đó nằm trong không gian. Không gian 
được biểu hiện như một đại lượng có sẵn 
vô tận. Tính vô cùng vô tận của không 
gian biểu hiện ở chỗ, không gian chứa vạn 
vật trong vũ trụ và cảm tính của con người 
có thể cảm nhận được nó như một hình 
thức tiên nghiệm có sẵn trong ý thức con 
người, chứ không phải do kinh nghiệm 
mang lại. 
Về thời gian, Kant cho rằng: “Thời 
gian không phải là một khái niệm suy lý, 
hay như người ta thường gọi, không phải 
là một khái niệm phổ biến mà là một mô 
thức thuần túy của trực quan cảm tính” (I. 
Kant, 2004, tr.156). Đối với thời gian, 
Kant đưa ra những nhận định gần giống 
như không gian. Không gian không phải 
là một quan niệm thường nghiệm do kinh 
nghiệm đưa lại. Nếu không có không gian 
làm nền, thì con người không thể tri giác 
được các sự kiện trước sau, đồng thời, tiếp 
tục, “thời gian, tức cảm năng của ta, chính 
là tấm vải mà trên đó được dệt những biến 
chuyển ta nhận thấy nơi vạn vật” (Trần 
Thái Đỉnh, 2005, tr.87). Vì vậy, thời gian 
không phải là một cái gì tự thân, hiện hữu, 
nó là cảm giác thuần túy có sẵn và đặt nền 
cho các hiện tượng của tâm linh. Thời 
gian cũng không phải là đặc tính của vạn 
vật trong tự nhiên. Thời gian được con 
người biểu tượng bằng một đường thẳng 
vô hạn, các biến cố đều nằm trên những 
quãng của đường thẳng này. 
Kant cho rằng, mọi đối tượng của trực 
quan cảm tính đều nằm trong không gian 
và thời gian. Điều đó có nghĩa việc tri giác 
được các sự vật, hiện tượng trong không 
gian và thời gian là kết quả của hoạt động 
ý thức của con người. Theo nhà nghiên 
cứu Trần Thái Đỉnh thì đối với Kant: 
“Không gian và thời gian tựa như những 
cái khuôn rỗng để lùa các hình hài, các ấn 
tượng, các trạng thái hỗn độn - đa dạng 
vào, rồi sau đó đúc chúng thành các cảm 
giác, các hình ảnh hay biểu tượng có tính 
xác định, tạo nên các sự vật hiện tượng của 
thế giới” (Trần Thái Đỉnh, 2005, tr.139). 
Tóm lại, Kant cho rằng bên ngoài 
chúng ta có các sự vật tồn tại khách quan. 
Các sự vật đó tác động lên các giác quan 
cảm tính của chúng ta với các ấn tượng, 
trạng thái hỗn độn - đa dạng. Chính những 
ấn tượng và trạng thái này là xuất phát 
điểm cho mọi tri thức của con người. 
Nhưng nếu chỉ dựa vào từng đó thì trong 
kinh nghiệm của bản thân con người mới 
chỉ cảm nhận được đối tượng đó tồn tại 
bên ngoài chúng ta mà chưa phân định 
được chúng cả về hình thức (không gian) 
16 Th«ng tin Khoa häc x· héi, sè 5.2016 
lẫn quá trình diễn biến (thời gian). Để 
thực hiện nhiệm vụ phân định đó cần có 
một năng lực tiên thiên sẵn có trong ý thức 
con người, năng lực đó biểu hiện trong 
không gian và thời gian. Nhờ đó con người 
mới thấy, mới cảm nhận được các sự vật, 
hiện tượng, các sự biến đổi của thế giới 
mà ta tiếp xúc trong kinh nghiệm cảm tính 
thường ngày. Tất nhiên, thế giới này trong 
quan niệm của Kant là thế giới hiện tượng. 
Giác tính 
Nhận thức của con người không dừng 
lại ở giai đoạn cảm tính mà cần tiếp tục ở 
giai đoạn giác tính. Bởi vì, những tri giác, 
những biểu tượng mà chủ thể có được 
trong giai đoạn nhận thức cảm tính chỉ có 
khả năng đem đến cho con người những 
tri thức riêng có tính ngẫu nhiên. Nhận 
thức của con người cần chuyển lên cấp độ 
cao hơn, đó là giác tính, mà công cụ của 
nó là các phạm trù giác tính thuần túy: 
“Giác tính không phải là quan năng của 
trực quan. Tuy nhiên, ngoài bằng trực 
quan ra không còn phương cách nhận thức 
nào khác hơn là bằng các khái niệm. Cho 
nên nhận thức của mọi giác tính - ít nhất 
là của giác tính con người - là một nhận 
thức bằng các khái niệm, không có tính trực 
quan mà là suy lý” (I. Kant, 2004, tr.229). 
Ở trình độ này, giác tính (trí năng) 
chính là tư duy, với hệ thống các khái 
niệm và các phạm trù của mình - đã thực 
hiện các phán đoán để xây dựng đối tượng 
nhận thức. Đối tượng không phải là nguồn 
gốc của tri thức về nó dưới dạng các khái 
niệm, phạm trù. Mà ngược lại, chính các 
hình thức của giác tính, tức là các khái 
niệm và các phạm trù đã kiến tạo nên đối 
tượng của nhận thức. 
Theo Kant, những phạm trù của tư 
duy không phải là sự tổng kết kinh 
nghiệm mà chỉ là những hình thức, thuần 
túy, chủ quan của tư duy. Quan niệm này 
là cơ sở cho học thuyết của ông về tri thức 
tiên nghiệm. Kant tự đặt câu hỏi: “Thật có 
chăng một nhận thức độc lập với kinh 
nghiệm và với cả mọi ấn tượng của giác 
quan? Ta gọi các nhận thức như vậy là 
tiên nghiệm” (I. Kant, 2004, tr.78). Với 
ông, giác tính là nguồn gốc của tri thức 
tiên nghiệm có sẵn trong đầu óc con người 
không phụ thuộc vào kinh nghiệm: “Đòi 
hỏi phải có giác tính cho nên tôi phải xem 
quy luật của giác tính là tiền đề có sẵn ở 
trong tôi một cách tiên nghiệm trước khi 
các đối tượng được mang lại cho tôi, quy 
luật ấy được diễn tả trong các khái niệm 
tiên nghiệm, do đó mọi đối tượng của kinh 
nghiệm phải nhất thiết hướng theo và phải 
phù hợp với chúng” (I. Kant, 2004, tr.45). 
Cảm tính chỉ là nguồn gốc của tri thức về 
cái riêng, còn giác tính mới là nguồn gốc 
của tri thức về cái chung (cái phổ biến và 
tất yếu). Đối với Kant, phạm trù là khuôn 
vàng thước ngọc của tri thức con người, là 
khởi nguyên của tri thức, đó là những định 
luật con người phải noi theo trong mọi 
hành vi tri thức. 
Thế giới tự nhiên, thực chất, là thế 
giới hiện tượng do ý thức con người sáng 
tạo ra, và có thể nhận thức được, tức là 
hiểu được những gì nằm trong phạm vi 
bao quát của hệ thống phạm trù tiên 
nghiệm vốn có ở con người: “Nhận thức 
tiên nghiệm chỉ liên quan đến hiện tượng 
là những gì xuất hiện ra cho ta và ta có thể 
buộc chúng phù hợp với các khái niệm do 
ta đặt vào nơi chúng” (Trần Thái Đỉnh, 
2005, tr.101-102). Theo Kant, khái niệm 
và phạm trù sở dĩ mang tính phổ quát và 
tất yếu, trước hết là vì chúng không phụ 
thuộc vào ý thức cá nhân (được hình thành 
bởi kinh nghiệm). Chúng chính là những 
hình thức siêu nghiệm của nhận thức. Tri 
thức, vì vậy, luôn là cơ sở (là chỗ dựa) 
cho chính nó. Nó có sẵn dưới dạng các tri 
thức siêu nghiệm, nó được làm giàu thêm, 
Chñ thÓ nhËn thøc trong triÕt häc 17 
được phát triển thêm cũng nhờ chính bản 
thân các tri thức kinh nghiệm và siêu 
nghiệm. Toàn bộ quá trình đó nằm ngoài 
và không phụ thuộc vào ý thức cá nhân, cá 
thể. Theo nghĩa ấy, Kant cho rằng tri thức 
con người có tính khách quan. 
Lý tính 
Các phạm trù của giác tính chỉ có 
thẩm quyền trong giới hạn của thế giới 
hiện tượng, mà không có khả năng thâm 
nhập vào thế giới “vật tự nó” (Ding an 
sich)(*). Song, bản tính tự nhiên của tư duy 
con người luôn khao khát vươn tới nhận 
thức cái tối cao tuyệt đối. Để làm được 
điều đó, nhận thức con người phải vượt 
qua giác tính, tiến lên giai đoạn lý tính, 
với các công cụ nhận thức trừu tượng hơn, 
khái quát hơn - đó là các ý niệm. Lý tính 
theo nghĩa rộng là trí tuệ con người, theo 
nghĩa hẹp là giai đoạn cao nhất của quá 
trình nhận thức: “Tất cả nhận thức của ta 
khởi đầu từ các giác quan, rồi tiến lên giác 
tính và kết thúc ở lý tính. Ngoài lý tính 
không còn cái gì cao hơn nữa trong tinh 
thần con người để xử lý chất liệu của trực 
quan và đưa chúng vào sự thống nhất tối 
cao của tư duy” (I. Kant, 2004, tr.47). 
Trong quan niệm của Kant, lý tính điều 
chỉnh tri giác của con người trong suốt 
quá trình nhận thức, dẫn dắt tri giác vào 
khuôn khổ của các hình thức tất yếu và 
phổ quát của nhận thức, đối tượng của lý 
tính chính là giác tính: “Nếu giác tính là 
một quan năng tạo ra sự thống nhất cho 
những hiện tượng nhờ các quy luật, thì lý 
tính là quan năng tạo ra sự thống nhất cho 
những quy luật của giác tính dưới các 
nguyên tắc” (I. Kant, 2004, tr.593). Bằng 
cách đó, lý tính quy định tính khách quan 
của tri thức. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, 
cái gì đã tạo ra khả năng đó của lý tính? 
Tại sao lý tính lại có thể đưa tri giác vào 
(*)
 Một số tài liệu dịch là “Vật tự thân”. 
các hình thức tiên nghiệm như vậy? Và 
cái gì đã gắn kết các phạm trù và các khái 
niệm vào một chỉnh thể trong hiện thực? 
Theo Kant, tất cả những thao tác đó là do 
đặc thù của chủ thể quy định. Nhà triết 
học duy lý vĩ đại này cho rằng, cơ sở sâu 
xa tạo nên sự thống nhất trong nhận thức 
luận (mà nếu thiếu sự thống nhất đó thì lý 
tính không thể thực hiện được chức năng 
của nó) đó là hành vi tự nhận thức của chủ 
thể: Cái tôi đang tư duy. Kant gọi hành vi 
này là sự thống nhất siêu nghiệm của tri 
giác hay sự kết hợp của các tri giác nằm ở 
ngoài giới hạn của kinh nghiệm. 
Khi trình bày các quan niệm về lý 
tính, Kant đồng thời chỉ ra giới hạn nhận 
thức của con người. Ông cho rằng, con 
người chỉ nhận thức được thế giới hiện 
tượng, còn thế giới “vật tự nó” thì trí tuệ 
con người không thể vươn tới: “Vật tự 
thân - tuy tồn tại thực nơi bản thân nó - 
nhưng lại không được ta nhận thức. Bởi vì 
cái thúc đẩy chúng ta nhất thiết phải đi ra 
khỏi ranh giới của kinh nghiệm của mọi 
hiện tượng chính là cái vô điều kiện mà lý 
tính luôn đòi hỏi, xem nó là tất yếu nơi 
bản thân những vật tự thân, là đương 
nhiên gắn liền với mọi cái có điều kiện, 
qua đó chuỗi các điều kiện mới được hoàn 
tất trọn vẹn (cái vô điều kiện chỉ là đòi hỏi 
chủ quan của lý tính nhưng lại được lý 
tính xem là có thật nơi những sự vật là 
những vật tự thân” (I. Kant, 2004, tr.597). 
 Kant cho rằng, lý tính con người có 
khát vọng nhận thức thế giới “vật tự nó” 
nhằm đạt tới trí tuệ tuyệt đối. Do vậy, xuất 
hiện những mâu thuẫn không giải quyết 
được mà ông gọi là các antinomie (nghịch 
lý). Đây không phải là mâu thuẫn logic 
bình thường mà nó có sẵn trong chính bản 
chất của con người. Ông đưa ra bốn 
nghịch lý, mỗi nghịch lý được cấu thành 
từ hai luận đề đối lập nhau, đó là chính đề 
và phản đề. Bốn mâu thuẫn này cũng 
18 Th«ng tin Khoa häc x· héi, sè 5.2016 
chính là bốn câu hỏi chủ yếu về ý niệm vũ 
trụ như sau: 
1) Chính đề: Thế giới có giới hạn 
trong không gian và thời gian; Phản đề: 
Thế giới là vô hạn trong không gian và 
thời gian. 
2) Chính đề: Thế giới như chỉnh thể 
phức tạp được cấu thành từ các bộ phận 
đơn giản; Phản đề: Thế giới không phân 
chia được, trên thế giới không có gì đơn 
giản cả. 
3) Chính đề: Trong thế giới tự nhiên 
có mối liên hệ nhân quả, ngoài ra còn có 
cả tự do; Phản đề: Không có gì là tự do, 
mọi cái đều diễn ra theo các quy luật của 
tự nhiên. 
4) Chính đề: Trong thế giới có tồn tại 
mối liên hệ tất yếu; Phản đề: Trong thế 
giới không tồn tại mối liên hệ tất yếu, mọi 
cái đều là ngẫu nhiên. 
Theo Kant, hai nghịch lý đầu tiên có 
quan hệ với tính hữu hạn và vô hạn, đơn 
giản và phức tạp, thuộc về antinomie toán 
học. Còn hai nghịch lý sau có quan hệ với 
tự do và tất yếu, tất nhiên và ngẫu nhiên, 
thuộc về antinomie động lực học. Kant coi 
các antinomie này là các mặt đối lập biện 
chứng. Vì vậy, ông giải quyết như sau: Cả 
hai mặt chính đề và phản đề trong 
antinomie toán học đều sai, bởi vì đối với 
thế giới “vật tự nó” (nằm ngoài không 
gian và thời gian) không thể áp dụng được 
giới hạn, vô hạn, thời gian, không gian. 
Còn đối với thế giới hiện tượng thì các 
tính chất này không được thể hiện một 
cách đầy đủ. Còn hai antinomie động lực 
học sau, nếu mặt nào trong mâu thuẫn 
đúng với thế giới hiện tượng thì sai với 
thế giới “vật tự nó” và ngược lại. 
Từ đó, Kant đi đến kết luận nhận thức 
lý tính của con người không thể đạt tới thế 
giới “vật tự nó”. Tuy nhiên, ông cũng 
khẳng định dù không nhận thức được thế 
giới “vật tự nó” nhưng chúng ta vẫn có thể 
suy tưởng về nó. 
Con người trong triết học của Kant 
trước hết là con người lý tính (hay con 
người với tư cách là chủ thể nhận thức) 
với niềm khao khát truy tìm chân lý vô 
biên với đầy đủ các công cụ để nhận thức: 
Cảm tính, giác tính và lý tính. Con người 
tham vọng đạt tới tri thức của siêu hình 
học như: linh hồn, thượng đế, vũ trụ 
nhưng phải dừng bước vì các đối tượng 
này thuộc thế giới “vật tự nó” - đây cũng 
là giới hạn của năng lực trí tuệ con người 
mà Kant xác định  
Tài liệu tham khảo 
1. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học Kant, 
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 
2. I. Kant (2004), Phê phán lý tính thuần 
túy, Nxb. Văn học, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfchu_the_nhan_thuc_trong_triet_hoc_immanuel_kant.pdf