Cấu trúc trong quan điểm của Chủ nghĩa hiện thực mới: Từ xã hội học tới Kenneth Waltz
Cấu trúc là một giả định lớn trong nghiên cứu quan hệ quốc tế (QHQT). Khái
niệm này được phát triển từ xã hội học và được Kenneth Waltz tiên phong áp dụng vào
QHQT. Cả ba nội dung lớn trong cấu trúc xã hội là mẫu hình quan hệ chung, sự phân
bố năng lực và luật lệ đều được kế thừa sang cấu trúc quốc tế. Tuy nhiên, do sự khác
nhau giữa hệ thống xã hội và hệ thống quốc tế nên cấu trúc quốc tế không giống cấu
trúc xã hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Cấu trúc trong quan điểm của Chủ nghĩa hiện thực mới: Từ xã hội học tới Kenneth Waltz", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cấu trúc trong quan điểm của Chủ nghĩa hiện thực mới: Từ xã hội học tới Kenneth Waltz
th Waltz là người tiên phong đưa cách tiếp cận hệ thống và phân tích cấu trúc vào nghiên cứu QHQT. Kể từ đó, cấu trúc bắt đầu được nghiên cứu và ứng dụng ngày càng nhiều trong QHQT. Cho đến nay, các quan điểm về hệ thống-cấu trúc của Kenneth Waltz vẫn có ảnh hưởng lớn, nếu không nói là lớn nhất, trong nghiên cứu cấu trúc quốc tế cũng như trong hoạch định chính sách đối ngoại. Trong nghiên cứu QHQT, sự quan tâm đến cấu trúc trong hệ thống quốc tế diễn ra khá muộn so với nhiều ngành khoa học xã hội khác. Đây đó chỉ có một vài lưu tâm đến hệ thống-cấu trúc nhưng không nhiều và cũng chưa rõ ràng. Ví dụ, Richard Rosecrance có đưa ra một nhân tố bên ngoài, ông gọi là nhân tố điều chỉnh (Regulator) mà có vẻ như từ cấu trúc của hệ thống. Nhân tố điều chỉnh được Thông tin Khoa học xã hội, số 7.201846 R. Rosecrance (1963: 229) cho là một quá trình không chính thức của một số nước phản ứng lại hành động phiền nhiễu của nước nào đó thông qua liên minh hoặc cố gắng cân bằng quyền lực. Nhân tố này cũng có thể xuất hiện dưới dạng thể chế trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Hay Stanley Hoff man xác định hệ thống quốc tế là “mẫu hình quan hệ giữa các đơn vị cơ bản của nền chính trị thế giới” và “mẫu hình này được xác định phần lớn bởi cấu trúc của thế giới” (Stanley Hoff man, 1965: 90). Tuy đã đề cập đến cấu trúc và vai trò của nó trong hệ thống quốc tế, nhưng Stanley Hoff man cũng chỉ dừng ở đó mà chưa làm rõ được cấu trúc. Thực ra trong Chủ nghĩa hiện thực, cũng có dấu vết sơ khai về phân tích cấu trúc từ xa xưa. Từ thời Hy Lạp cổ đại, nhà sử học Thucydide (471-401 TCN.) đã từng sử dụng cấu trúc sinh học để tìm hiểu cơ chế tâm lý dẫn đến chiến tranh dựa trên mối lo sợ về sự mất cân bằng quyền lực giữa Athen và Sparta. Nhưng đó là sự hiếm hoi bởi vì trong lịch sử hơn 2.500 năm phát triển của mình, truyền thống của Chủ nghĩa hiện thực chủ yếu là tiếp cận QHQT trên cấp độ đơn vị (Unit-level) và tập trung vào phần tử (Agent centred). Bởi coi quốc gia là chủ thể nên quốc gia trở thành đơn vị phân tích chính trong nghiên cứu QHQT. Theo cách tiếp cận này, QHQT diễn ra thế nào phụ thuộc gần như hoàn toàn vào quốc gia như năng lực, lợi ích, tính toán,... mà không tính đến những tác động từ môi trường bên ngoài. Những tác động từ bên ngoài nếu có thì chỉ là từ các quốc gia cụ thể khác. Cấu trúc quốc tế và tác động của nó như nhân tố bên ngoài gần như không được tính đến trong Chủ nghĩa hiện thực cổ điển. Theo chúng tôi, sự tồn tại lâu dài của cách tiếp cận trên cấp độ đơn vị của Chủ nghĩa hiện thực và cả sự thiếu vắng nghiên cứu cấu trúc trong lý thuyết QHQT nói chung có thể xuất phát từ hai lý do chính liên quan đến cơ sở thực tiễn và lý luận. Về cơ sở thực tiễn, trước kia trong lịch sử, QHQT chưa phát triển, tương tác giữa các quốc gia chưa nhiều. Do đó, hệ thống quốc tế chưa hình thành rõ rệt hoặc chưa được cố kết chặt chẽ để tạo nên cấu trúc. Cũng bởi vì thế mà tác động của hệ thống-cấu trúc tới quan hệ quốc tế chưa đủ mạnh để có thể nhận thấy. Về cơ sở lý luận, đó là sự thiếu vắng tư duy phân tích hệ thống và cấu trúc. Không có tư duy hệ thống và cấu trúc, không thể nhận biết tác động từ hai yếu tố này tới quan hệ giữa các chủ thể. Sau Chiến tranh Thế giới II, Chủ nghĩa hiện thực nổi lên như dòng tư duy chính trong nghiên cứu QHQT. Nhưng cũng chính trong thời hoàng kim của mình, Chủ nghĩa hiện thực đã bị phê phán mạnh mẽ bởi những thiếu sót khi không giải thích được nhiều hiện tượng QHQT trong thời hiện đại, vốn ngày càng phức tạp với sự đan xen nhân tố cùng tính chất đa dạng, đa diện, đa tầng. Trong bối cảnh đó, Kenneth Waltz đã có sự phát triển quan trọng cho Chủ nghĩa hiện thực để hình thành nên trường phái mới. Đó chính là Chủ nghĩa hiện thực mới (Neorelism) mà vẫn tiếp tục được phát triển cho đến tận ngày nay. Năm 1979, Kenneth Waltz xuất bản cuốn Lý thuyết Chính trị quốc tế (Theory of International Politics). Trong cuốn sách này, Kenneth Waltz đã đưa ra bổ sung quan trọng nhất về mặt phương pháp luận cho Chủ nghĩa hiện thực mới - đó là cách tiếp cận hệ thống với sự nhấn mạnh vào vai trò của cấu trúc. Thừa nhận sự khiếm khuyết của Chủ nghĩa hiện thực cổ điển vốn chỉ tập trung vào quốc gia, Kenneth Waltz cho rằng “mọi lý thuyết QHQT cần nói với Cấu trúc trong quan điểm 47 chúng ta điều gì đó cả về phần tử-quốc gia lẫn hệ thống như một tổng thể” (Dẫn theo: Jill Steans, Lloyd Pettiford, Thomas Diaz and Imed El-Alnis, 2010: 58). Khác với Chủ nghĩa hiện thực cổ điển có cách tiếp cận trên cấp độ đơn vị với sự tập trung vào phần tử quốc gia, Chủ nghĩa hiện thực mới nhấn mạnh đến cách tiếp cận cấu trúc của hệ thống như một tác nhân lớn có khả năng chi phối QHQT. Hay nói nôm na, một cái thuần túy chú ý tới đơn vị, còn cái kia quan tâm và bổ sung thêm hệ thống- cấu trúc. Đây là sự khác nhau về phương pháp luận giữa Chủ nghĩa hiện thực mới và Chủ nghĩa hiện thực cổ điển. Chính bởi nhấn mạnh tới cấu trúc mà Chủ nghĩa hiện thực mới còn được gọi là Chủ nghĩa hiện thực Cấu trúc (Structural Realism). Theo Kenneth Waltz, một hệ thống được nhận biết trên hai cấp độ. Trong cấp độ đầu, hệ thống được xác định bởi một tập hợp các đơn vị tương tác với nhau. Trong cấp độ sau, hệ thống được tạo bởi cấu trúc và chính cấu trúc là bộ phận ở cấp độ hệ thống giúp nối kết các đơn vị để hình thành nên hệ thống mà không phải là một tập hợp đơn thuần (Kenneth N. Waltz, 1979: 40). Điều đó có nghĩa là, không phải tập hợp nào cũng là hệ thống, phải là tập hợp các đơn vị tương tác với nhau và phải có cấu trúc thì mới là hệ thống. Vì thế, cũng theo Kenneth Waltz, mục đích của lý thuyết hệ thống là phải chỉ ra được hai cấp độ này vận hành và tương tác thế nào. Đồng thời, bất kỳ lý thuyết hay cách tiếp cận nào nếu được gọi là “hệ thống” thì đều phải phân biệt được hai cấp độ này khác nhau ra sao. Việc xác định cấu trúc phải bỏ qua các thuộc tính và quan hệ của các đơn vị. Chỉ có như vậy thì mới phân biệt được sự thay đổi của cấu trúc với những thay đổi diễn ra bên trong cấu trúc (Kenneth N. Waltz, 1979: 40). Từ đó, Kenneth Waltz cho rằng, cách tiếp cận hệ thống có thể tóm lược bằng mối quan hệ qua lại giữa cấu trúc quốc tế và các đơn vị có tương tác với nhau trong hệ thống quốc tế. Theo Kenneth Waltz, mỗi hệ thống được cấu thành bởi một cấu trúc và các đơn vị có tương tác với nhau. Trong hệ thống, cấu trúc được coi là một bộ phận có phạm vi trên toàn hệ thống và giúp hệ thống được nhận biết như một tổng thể (Kenneth N. Waltz, 1979: 79). Cấu trúc là cái gì đó có tính chung và lâu dài hơn, trong khi các đơn vị bên trong có thể đa dạng và thay đổi. Cấu trúc được xác định bằng sự sắp xếp các bộ phận trong một hệ thống. Chỉ có thay đổi sự sắp xếp mới là sự thay đổi cấu trúc (Kenneth N. Waltz, 1979: 80). Theo Kenneth Waltz, sự sắp xếp các bộ phận trong hệ thống để tạo ra cấu trúc được thực hiện trên ba điểm: Thứ nhất, cấu trúc được xác định bởi nguyên tắc làm cho hệ thống được trật tự. Đó là nguyên tắc trật tự (Ordering Principle). Hệ thống sẽ biến đổi nếu nguyên tắc trật tự này được thay thế bởi nguyên tắc trật tự khác (Kenneth N. Waltz, 1979: 100). Thứ hai, cấu trúc cũng được xác định theo đặc thù chức năng của các đơn vị khác nhau. Hệ thống sẽ thay đổi nếu chức năng được xác định và phân công khác nhau. Thứ ba, cấu trúc còn được xác định bằng sự phân bố năng lực giữa các đơn vị. Thay đổi trong sự phân bố này sẽ là sự thay đổi hệ thống dù là hệ thống vô chính phủ hay thứ bậc (Kenneth N. Waltz, 1979: 101). Trong cấu trúc này, nguyên tắc tổ chức là vô chính phủ; các đơn vị có chức năng giống nhau hoặc khác nhau tạo nên đặc điểm của những phần tử; sự phân bố những năng lực tạo nên quyền lực hay sức mạnh của quốc gia (Colin Elman, Realism, Thông tin Khoa học xã hội, số 7.201848 Martin Griffi ths, 2007: 13). Sự thay đổi của ba yếu tố này đều có thể dẫn đến sự thay đổi của cấu trúc. Tuy nhiên, dưới cách nhìn của Chủ nghĩa hiện thực, thế giới luôn ở tình trạng vô chính phủ nên nguyên tắc vô chính phủ sẽ không thay đổi. Tương tự như vậy, do quốc gia (là đơn vị của cấu trúc quốc tế) có lợi ích cơ bản tương đối ංốඇ nhau và xuyên suốt khi đều tập trung vào an ninh và quyền lực. Vì thế, chức năng của quốc gia cơ bản cũng không thay đổi. Và do đó, biến số chính có thể làm thay đổi quan hệ quốc tế chính là sự phân bố năng lực giữa các quốc gia trong hệ thống. Điều này đã được Kenneth Waltz nhấn mạnh “Nguyên tắc trật tự có thể không thay đổi nhưng cấu trúc của hệ thống vẫn có thể khác nhau do sự thay đổi phân bố năng lực giữa các quốc gia” (Kenneth N. Waltz, 1979: 129). Vì thế, sự phân bố năng lực đóng vai trò chính và được coi như hiện thân và là nội dung chủ yếu của cấu trúc trong hệ thống quốc tế. Do năng lực sẽ được chuyển hóa thành quyền lực của quốc gia trong QHQT, cho nên cấu trúc này thực chất là cấu trúc quyền lực. Cấu trúc quyền lực được thể hiện bằng các cực và sự phân tầng giữa các phần tử. Trong đó, cực là các trung tâm quyền lực lớn nhất có ảnh hưởng trên cả hệ thống quốc tế và đó thường là các cường quốc. Sự thay đổi của cấu trúc phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi tương quan quyền lực giữa chúng. Còn sự phân tầng phản ánh mức độ chênh nhau về quyền lực. Mức độ chênh lệch quyền lực càng lớn, sự phân tầng càng cao và ngược lại. Do các cường quốc thường nắm được quyền lực lớn và có khả năng chi phối cấu trúc nên sự đấu tranh giữa chúng cũng dễ xảy ra để thay đổi cấu trúc quyền lực theo hướng có lợi cho mình. Như vậy, đối với Kenneth Waltz và Chủ nghĩa hiện thực mới, quốc gia là những đơn vị trong hệ thống quốc tế và cường quốc là những đơn vị chủ yếu. Trong cấu trúc này, vì nhấn mạnh đến sự phân bố quyền lực với mức chênh của nó nên cấu trúc của Chủ nghĩa hiện thực mới chính là cấu trúc từ trên xuống dưới (top-down) với hàm ý mạnh ở trên chi phối yếu ở dưới. Đồng thời, do quyền lực luôn là đối tượng tranh chấp chính trong QHQT nên xung đột là thường xuyên và không tránh khỏi trong QHQT. Sự chi phối của nước lớn đối với nước nhỏ và xung đột quyền lực được Chủ nghĩa hiện thực coi là mẫu hình quan hệ chính của cấu trúc. Cấu trúc cũng góp phần quy định cách ứng xử của các nước nhỏ đối với nước lớn. Kennett Waltz cho rằng có hai cách chính là cân bằng (balancing) và phù thịnh (bandwagoning). Các nước nhỏ phù thịnh là để vừa có phần, vừa giảm thành quả của người đứng đầu, đồng thời cũng góp phần làm giảm xung đột và căng thẳng. Còn cân bằng là liên minh với các nước khác để kiềm chế những động thái không có lợi từ phía các nước lớn. Khi có cân bằng sức mạnh, không bên nào có thể chắc chắn thắng trong cuộc tranh giành này nên có thể duy trì được an ninh và ổn định. 4. Một vài nhận xét Qua việc trình bày cấu trúc xã hội trong ngành xã hội học và cấu trúc trong QHQT qua lý thuyết Chủ nghĩa hiện thực mới của Kenneth Waltz, có thể rút ra một vài nhận xét như sau: Thứ nhất, về đại thể, nhận thức cấu trúc của Kenneth Waltz đã có sự kế thừa và tiếp thu đáng kể từ các khái niệm cấu trúc xã hội trong ngành xã hội học. Điều này được thể hiện ở ba nội dung của cấu trúc xã hội là mẫu hình quan hệ, phân bố năng lực và luật lệ. Nếu hai nội dung đầu là mẫu hình quan hệ và phân bố năng lực được phản ánh rõ ràng trong luận điểm của Waltz thì nội Cấu trúc trong quan điểm 49 dung về luật lệ lại là ngầm ẩn. Với quan điểm đề cao quyền lực, coi quyền lực là khả năng ép buộc người khác làm điều mình muốn dù họ không muốn đã cho thấy luật lệ thuộc về kẻ mạnh. Mức chênh quyền lực càng cao, khả năng làm ra luật lệ và đảm bảo hiệu lực cho chúng càng lớn. Ngoài ra, sự kế thừa, tiếp thu này còn được thể hiện ở việc Kenneth Waltz đi theo trường phái của Emile Durkheim (1893) khi nhấn mạnh đến vai trò chi phối của cấu trúc đối với đơn vị hơn là ngược lại. Đây là chủ đề sẽ bàn trong dịp khác. Thứ hai, nếu các khái niệm cấu trúc xã hội trong ngành xã hội học dường như thiên nhiều hơn về mẫu hình quan hệ như nội dung hàng đầu thì Kenneth Waltz và Chủ nghĩa hiện thực Mới lại nhấn mạnh đến sự phân bố năng lực như nội dung chủ yếu của cấu trúc quốc tế. Sự phân bố năng lực này được coi là cơ sở cho cả hai nội dung mẫu hình quan hệ và luật lệ trong QHQT. Việc nhấn mạnh đến sự phân bố năng lực hơn mẫu hình quan hệ của Chủ nghĩa hiện thực mới có lý do quan trọng là sự khác nhau giữa QHQT với quan hệ xã hội trong nước. QHQT thường xuyên diễn ra trong môi trường vô chính phủ, nền tảng lại không vững chắc như quan hệ trong nước. Quan hệ xã hội trong nước có sự bảo đảm của luật pháp hiệu lực, sự định hướng của chính sách nhà nước, giá trị, bản sắc, truyền thống, tập tục,... là những yếu tố khiến cho mẫu hình quan hệ vừa có tính vững bền, vừa có khả năng chi phối hành vi của đơn vị. Sống trong môi trường quốc tế vô chính phủ, việc hình thành và duy trì cấu trúc phải dựa nhiều vào quyền lực hơn các yếu tố trên là điều dễ hiểu. Thứ ba, nhận thức về cấu trúc quốc tế của Kenneth Waltz chỉ quan tâm tới cấu trúc chính trị của hệ thống quốc tế, tới sự phân bố quyền lực hơn là mẫu hình quan hệ chung và luật lệ từ cấu trúc. Nhìn chung, Kenneth Waltz tập trung nhiều vào yếu tố quyền lực trong cấu trúc. Điều này được quy định bởi truyền thống tư duy của Chủ nghĩa hiện thực vốn là Chính trị học quyền lực (Power Politics). Đối với lý thuyết này, chính trị là thống soái, quyền lực là mục đích và phương tiện cơ bản của quốc gia. Tuy nhiên, chính sự tập trung rất cao vào chính trị quyền lực đã đem lại sự phiến diện trong quan điểm về cấu trúc của lý thuyết này. Sau Kenneth Waltz, các lý thuyết QHQT khác đã phê phán và bổ sung thêm những nhận thức về cấu trúc trong hệ thống quốc tế. Ví dụ, Chủ nghĩa mác xít mới bổ sung thêm cấu trúc kinh tế, Chủ nghĩa kiến tạo thì đề cập đến cấu trúc phi vật chất. Chủ nghĩa tự do hạ thấp vai trò của cấu trúc, còn Chủ nghĩa kiến tạo cũng giảm bớt vai trò chi phối của cấu trúc,... Mặc dù vậy, những đóng góp của Kenneth Waltz và Chủ nghĩa hiện thực mới vẫn đáng ghi nhận. Không chỉ vẫn được sử dụng nhiều để nghiên cứu và hoạch định chính sách, nhất là trong quan hệ an ninh-chính trị, luận điểm về cấu trúc của Kenneth Waltz đã kích thích sự nghiên cứu và ứng dụng hệ thống-cấu trúc trong QHQT. Điều này góp phần đáp ứng yêu cầu nghiên cứu QHQT vốn có có bản chất liên ngành và đa ngành Tài liệu tham khảo 1. Lê Ngọc Hùng (2015), Hệ thống, cấu trúc & Phân hóa xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 2. V. Porpora Douglas (1989), “Four Concepts of Social Structure”, Journal for the Theory of Social Behaviour, 19 (2). (xem tiếp trang 62)
File đính kèm:
- cau_truc_trong_quan_diem_cua_chu_nghia_hien_thuc_moi_tu_xa_h.pdf