Cảm nhận về công bằng ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên trường Đại học Tài chính – Marketing
Tóm tắt
Nghiên cứu này là xác định và đánh giá mức độ tác động của các thành phần công bằng ảnh hưởng
đến sự hài lòng của sinh viên, trên cơ sở đó đề xuất các hàm ý quản trị nhằm nâng cao sự hài lòng
của sinh viên Trường Đại học Tài chính – Marketing. Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu kết
hợp giữa định tính và định lượng. Dữ liệu khảo sát sau khi sàn lọc là 309 sinh viên của Trường.
Dựa trên kiểm định độ tin cậy thang đo bằng Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA,
phân tích hồi quy bội, nghiên cứu này đề xuất một số hàm ý quản trị theo thứ tự mức độ mạnh tác
động đến sự hài lòng của sinh viên là: Công bằng tương tác (β=0,388), Công bằng phân phối
(β=0,323) và Công bằng thủ tục (β=0.222). Từ kết quả nghiên cứu, bài viết đã đề xuất với đội ngũ
quản lý Nhà trường những vấn đề cần lưu ý nhằm nâng cao tính công bằng; từ đó nâng cao sự hài
lòng của sinh viên.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cảm nhận về công bằng ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên trường Đại học Tài chính – Marketing
cho khách hàng trong quá trình phục hồi dịch vụ như tiền thưởng, giảm giá, phiếu giảm giá và cung cấp sản phẩm/dịch vụ miễn phí. Công bằng thủ tục: Mười năm sau học thuyết của Adam (1965), Thibaut & ctg (1975) đã xác định thành phần thứ hai của công bằng, có tên gọi là công bằng thủ tục, bao gồm quá trình sử dụng theo các nguyên tắc thống nhất để đạt được kết quả. Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng đã xác nhận rằng khách hàng xác định tính công bằng không chỉ bằng cách xem xét các kết quả nhận được, mà còn về mặt công bằng theo thủ tục được xác định là sự công bằng được cảm nhận về các phương tiện mà kết quả cuối cùng được thực hiện (Goodwin & ctg, 1989; Smith & ctg, 1999). Trong khi công bằng về thủ tục là một khái niệm phức tạp, có những vấn đề trọng tâm (như khả năng tiếp cận, tốc độ) có liên quan đặc biệt đến các doanh nghiệp dịch vụ (Blodgett & ctg, 1997). Trong các cuộc gặp gỡ giải quyết liên hệ, nhân viên nên cung cấp sản phẩm và giải quyết xung đột một cách chính xác và có hiệu quả. Sự bất công trong việc chờ đợi quá lâu trong các tình huống dịch vụ và thiếu khả năng tiếp cận của nhân viên liên lạc có thể dẫn đến sự không hài lòng của khách hàng. Tax & ctg (1988) định nghĩa công bằng thủ tục là sự cảm nhận về sự công bằng trong các chính sách, thủ tục và tiêu chuẩn được sử dụng bởi các nhà hoạch định nhằm đạt được kết quả khi đàm phán hoặc tranh chấp về dịch vụ. Khi kết quả dịch vụ được tạo ra bởi những quy trình thủ tục, công bằng thủ tục là một mối quan tâm quan trọng trong việc đánh giá công bằng. Theo Tax & ctg (1988) thì những tiêu chí cụ thể hơn để đánh giá công bằng thủ tục bao gồm: tính đúng lúc, tính mau lẹ, cách tiếp cận, linh hoạt, kiểm soát quy trình, kiểm soát kết quả, chính sách quyền lợi và sự chấp hành, phương pháp hợp lý. Công bằng tương tác: Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu được tập trung chủ yếu vào các khía cạnh nói trên của công bằng phân phối và thủ tục, cơ sở thứ ba để đánh giá sự công bằng trong các mối quan hệ với khách hàng được đưa ra, đó là công bằng tương tác (Bies, & Moag, 1986). Trong các cuộc gặp gỡ dịch vụ, công bằng tương tác đề cập đến sự công bằng của các khách hàng được nhân viên tiếp đãi và giải quyết trong suốt quá trình tiêu dùng (Blodgett & ctg, 1997). Công bằng về thủ tục tập trung vào các vấn đề về quá trình có tính chức năng và không liên quan đến bản chất (như thời gian/tốc độ, khả năng tiếp cận), trong khi đó công bằng tương tác đề cập đến các vấn đề về thủ tục liên quan đến con người hơn như sự lịch sự, sự tôn trọng, sự quan tâm, sự tin tưởng, sự tận tâm, sự đồng cảm, sự xin lỗi, sự giao tiếp (Smith và ctg, 1999). Công bằng tương tác tập trung chủ yếu vào sự tương tác giữa nhân viên và khách hàng thông qua sự giao tiếp của họ trong quá trình cung cấp dịch vụ của các công ty. 2.2. Khái niệm sự hài lòng Sự hài lòng của khách hàng là một trong số những đề tài mà nhiều công ty nghiên cứu nhất, vì vậy, những nhà lý luận đang tiếp tục tìm ra những mô hình và phương pháp mới nhất có thể tiết lộ thông tin có ý nghĩa về sự hài lòng của khách hàng. Những nhà nghiên cứu thị trường vẫn chưa thống nhất được một định nghĩa toàn cầu về sự hài lòng của khách hàng. Mặc dù những khái niệm này đã được tìm kiếm kỹ lưỡng, một mô hình lý thuyết không và dường như sẽ không được chấp nhận bởi vì quá trình Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018 53 phức tạp trong việc đạt được sự phán xét hài lòng hoặc không hài lòng của khách hàng. Theo Kotler (2000) thì sự hài lòng của khách hàng là mức độ trạng thái cảm giác của khách hàng bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm/dịch vụ với những kỳ vọng của chính họ. Mức độ hài lòng phụ thuộc sự khác biệt giữa kết quả nhận được và sự kỳ vọng, nếu kết quả thực tế thấp hơn sự kỳ vọng thì khách hàng không hài lòng, nếu kết quả thực tế tương xứng với kỳ vọng thì khách hàng sẽ hài lòng, nếu kết quả thực tế cao hơn sự kỳ vọng thì khách hàng rất hài lòng. Sự kỳ vọng của khách hàng được hình thành từ kinh nghiệm mua sắm, từ bạn bè, đồng nghiệp và từ những thông tin của người bán hàng, dịch vụ và đối thủ cạnh tranh. Để nâng cao sự thỏa mãn của khách hàng, doanh nghiệp cần có những khoản đầu tư thêm và ít ra cũng là đầu tư thêm những chương trình marketing. Theo Oliver (1997) thì sự hài lòng của khách hàng là sự phản hồi tình cảm cũng như toàn bộ cảm nhận của khách hàng đối với nhà cung cấp dịch vụ trên cơ sở so sánh sự khác biệt giữa những gì họ nhận được so với mong đợi trước đó. Nói một cách đơn giản, sự hài lòng của khách hàng chính là trạng thái hay cảm nhận của khách hàng đối với nhà cung cấp dịch vụ sau khi đã sử dụng dịch vụ đó. 2.3. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu Công bằng phân phối là sự nhận thức công bằng về những kết quả mà sinh viên nhận được từ Nhà trường trong việc đáp ứng về chất lượng dịch vụ và phục vụ đối với việc học tập của sinh viên. Theo Adam (1965) khi việc phân phối các kết quả phục vụ là công bằng sẽ tạo cho khách hàng nhận thức được là họ được đối xử công bằng từ đó gia tăng sự hài lòng đối với chất lượng phục vụ của Nhà trường. Kết quả nghiên cứu của Martinez-Tur (2006), Zhao & ctg (2012), Nadiri (2016) cho thấy Công bằng phân phối có mối quan hệ dương (+) với sự hài lòng khách hàng, do đó phát biểu giả thuyết H1 như sau: Giả thuyết H1: Công bằng phân phối có tác động tích cực (+) đến sự hài lòng của sinh viên Trường Đại học Tài chính – Marketing. Công bằng thủ tục liên quan đến sự công bằng về chính sách, thủ tục và tiêu chuẩn trong suốt quá trình cung cấp dịch vụ. Sinh viên thường xuyên phải thực hiện các quy định của Trường trong quá trình học tập tại Trường nên các chính sách, thủ tục và tiêu chuẩn mà sinh viên phải tuân thủ sẽ quyết định đến mức độ hài lòng của họ. Nghiên cứu về marketing, Maxham và Netemeyer (2002), Smith và ctg (1999), Tax và ctg (1988), cho rằng công bằng thủ tục có mối quan hệ tích cực đến sự hài lòng của khách hàng, do đó phát biểu giả thuyết H2 như sau: Giả thuyết H2: Công bằng thủ tục có tác động dương tích cực (+) đến sự hài lòng của sinh viên Trường Đại học Tài chính – Marketing. Công bằng tương tác xảy ra khi khách hàng cảm thấy rằng họ được đối xử lịch sự, nhã nhặn, tôn trọng, đồng cảm và công ty nỗ lực giải quyết vấn đề (Smith và ctg, 1999). Đối với trường đại học, sinh viên sẽ cảm thấy hài lòng khi mối quan hệ giữa sinh viên với các phòng ban, các khoa khi trong quá trình tương tác họ cảm thấy được đối xử công bằng. Kết quả nghiên cứu của Martinez-Tur (2006), Zhao & ctg (2012), Nadiri (2016) cho thấy Công bằng tương tác có mối quan hệ dương (+) với sự hài lòng khách hàng, do đó phát biểu giả thuyết H3 như sau: Giả thuyết H3: Công bằng tương tác có tác động tích cực (+) đến sự hài lòng của sinh viên Trường Đại học Tài chính – Marketing. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018 54 Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất 3. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này được thực hiện thông qua nghiên cứu hỗn hợp: nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định tính được thực hiện bằng cách sử dụng kỹ thuật thảo luận nhóm 10 sinh viên và giảng viên. Dựa vào thang đo nháp được kế thừa từ nghiên cứu của Martinez-Tur (2006), Jha và Balaji (2015), Zhao & ctg (2012), Nadiri (2016) dàn bài thảo luận nhóm được xây dựng rồi đưa vào thảo luận để chọn ra những câu hỏi phù hợp sử dụng cho nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu thực hiện 2 cuộc thảo luận nhóm: buổi thảo luận nhóm đầu tiên với 4 giảng viên đang giảng dạy chuyên ngành quản trị kinh doanh và đi đến thống nhất các câu được chuyển từ thang đo doanh nghiệp sang; buổi thảo luận thứ hai với 6 sinh viên tại lớp học và đi đến nhất trí các câu hỏi trong thang đo sau khi chuyển từ thang đo dành cho doanh nghiệp sang thang đo dành cho sinh viên là phù hợp. Kết quả thang đo chính thức theo Phụ lục đính kèm. Nghiên cứu định lượng này được thực hiện thông qua phương pháp phỏng vấn trực tiếp sinh viên tại Trường Đại học Tài chính – Marketing. Từ dữ liệu thu thập, nghiên cứu này thực hiện kiểm định độ tin cậy thang đo bằng Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích hồi quy bội. Số phiếu phát ra là 320 phiếu. Dữ liệu thu thập sau khi sàn lọc là 309 phiếu; trong đó về giới tính cho thấy có 160 sinh viên nam tham gia cuộc khảo sát chiếm tỷ lệ 51,8% nam và 48,2% nữ; 108 sinh viên năm thứ hai (35,0%), 85 sinh viên năm thứ ba (27,5%) và 116 sinh viên năm thứ tư (37,5%); xét theo khoa, 40 sinh viên khoa Thương mại (12,9%), Tài chính – Ngân hàng 44 sinh viên (14,2%), khoa Du lịch 39 sinh viên (12,6%), khoa Công nghệ thông tin 22 sinh viên (7,1%), khoa Marketing 29 sinh viên (9,4%), khoa Quản trị kinh doanh có 41 sinh viên (13,3%), khoa Thẩm định giá – kinh doanh bất động sản 32 sinh viên (10,4%), khoa Kế toán – Kiểm toán có 21 sinh viên (6,8%), khoa Ngoại ngữ có 26 sinh viên (8,4%), khoa Thuế - Hải quan có 15 sinh viên (4,9%). 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1. Đánh giá thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo Công bằng phân phối (DJ) cho thấy Thang đo đạt độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha đạt 0,864 (>0,6); Hệ số tương quan biến – tổng hiệu chỉnh của các biến quan sát đều lớn hơn 0,3. Không có biến nào khi loại làm cho Cronbach’s Alpha tăng cao hơn 0,864. Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo Công bằng thủ tục (PJ) cho thấy Thang đo đạt độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha đạt 0,846>0,6; Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018 55 Hệ số tương quan biến – tổng hiệu chỉnh của biến quan sát PJ4 ở lần phân tích thứ nhất đạt 0,270<0,3 nên bị loại khỏi thang đo. Ở lần phân tích thứ 2 thì các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến – tổng hiệu chỉnh đều lớn hơn 0,3. Không có biến nào khi loại làm cho Cronbach’s Alpha tăng cao hơn 0,846. Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo Công bằng tương tác (IJ) cho thấy Thang đo đạt độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha đạt 0,781>0,6; Hệ số tương quan biến – tổng hiệu chỉnh của các biến quan sát đều lớn hơn 0,3. Không có biến nào khi loại làm cho Cronbach’s Alpha tăng cao hơn 0,781. Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo Sự hài lòng (SA) cho thấy Thang đo đạt độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha đạt 0,670>0,6. Hệ số tương quan biến – tổng hiệu chỉnh của các biến quan sát đều lớn hơn 0,3. Không có biến nào khi loại làm cho Cronbach’s Alpha tăng cao hơn 0,670. Kết luận: có 21 biến quan sát của thang đo độc lập và 03 biến quan sát của thang đo phụ thuộc thỏa điều kiện để đưa vào phân tích nhân tố khám phá (EFA). 4.2. Phân tích nhân tố khám phá Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) lần 1 bằng phương pháp trích Principal Component và phép xoay Varimax cho kết quả như sau: Hệ số KMO đạt 0,897 với giá trị Sig đạt 0.000 chứng tỏ dữ liệu nghiên cứu phù hợp để phân tích nhân tố khám phá (EFA); 21 biến quan sát thuộc thang đo độc lập được trích vào 3 nhóm tại giá trị Eigenvalue đạt 1,748 và phương sai tích lũy đạt được 51,269%; Tất cả các biến quan sát đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,50; Riêng biến quan sát IJ6 có hệ số tải nhân tố nhỏ hơn 0,50 do đó biến quan sát này sẽ bị loại ra khỏi thang đo và tiến hành phân tích nhân tố khám phá lần 2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) lần 2 bằng phương pháp trích Principal Component và phép xoay Varimax cho kết quả như sau: Hệ số KMO đạt 0,898 với giá trị Sig đạt 0,000 chứng tỏ dữ liệu nghiên cứu phù hợp để phân tích nhân tố khám phá (EFA); 20 biến quan sát thuộc thang đo độc lập được trích vào 3 nhóm tại giá trị Eigenvalue đạt 1,686 và phương sai tích lũy đạt được 53,007%; Tất cả các biến quan sát đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,50 và giải thích ý nghĩa cho 3 nhóm nhân tố; Đánh giá độ tin cậy các thang đo mới phân tích được với các hệ số Cronbach’s Alpha đều đạt trong khoảng từ 0.60 – 0.95. Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) đối với yếu tố phụ thuộc bằng phương pháp trích Principal Component và phép xoay Varimax cho kết quả như sau: Hệ số KMO đạt 0,636 với giá trị Sig đạt 0,000 chứng tỏ dữ liệu nghiên cứu phù hợp để phân tích nhân tố khám phá (EFA); 03 biến quan sát được trích vào 1 nhóm tại giá trị Eigenvalue đạt 1,819 và phương sai tích lũy đạt được 60,637%; Tất cả các biến quan sát đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,50 và giải thích ý nghĩa cho nhóm nhân tố, do đó các biến này đều thỏa điều kiện để phân tích hồi quy tuyến tính. 4.3. Kiểm định mô hình nghiên cứu 4.3.1. Phân tích ma trận tương quan hệ số Pearson Kết quả kiểm tra hệ số tương quan giữa biến độc lập và biến phụ thuộc cho thấy hệ số tương quan giữa các biến khá cao đạt giá trị từ 0,559 đến 0,650, đồng thời giá trị kiểm định (hệ số sig) giữa các biến nhỏ hơn 0,05 (mức ý nghĩa 5%). Kết quả trên cho thấy mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc là khá chặt chẽ. 4.3.2. Phân tích hồi quy tuyến tính Căn cứ vào kết quả phân tích hồi quy tuyến Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018 56 Bảng 4.1: Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) các yếu tố độc lập KMO = 0,898 SIG = 0,000 THÀNH PHẦN Công bằng phân phối Công bằng thủ tục Công bằng tương tác DJ5 0,752 DJ6 0,729 DJ2 0,715 DJ1 0,711 DJ4 0,704 DJ3 0,664 DJ7 0,639 PJ1 0,719 PJ2 0,703 PJ7 0,701 PJ6 0,694 PJ3 0,674 PJ5 0,669 PJ8 0,627 IJ5 0,726 IJ4 0,692 IJ3 0,663 IJ1 0,653 IJ7 0,600 IJ2 0,591 EIGENVALUE 6,885 2,030 1,686 PHƯƠNG SAI TÍCH LŨY 19,571 37,981 53,007 Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả Bảng 4.1: Đánh giá mức độ phù hợp của mô hình Mô hình R R2 R2 điều chỉnh Độ lệch chuẩn của sai số ước lượng Durbin-Watson 1 0,759a 0,576 0,572 0,327530 1,962 Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả tính cho thấy mô hình bao gồm 3 yếu tố độc lập DJ, PJ, IJ là phù hợp nhất với hệ số R2 điều chỉnh đạt 57,2% và các yếu tố độc lập hoàn toàn phù hợp mô hình với khả năng giải thích cho yếu tố phụ thuộc là 57.2%. Kiểm định F sử dụng để kiểm định giả thuyết về độ phù hợp của mô hình hồi quy tuyến tính tổng thể. Mục tiêu của kiểm định này nhằm xem xét biến phụ thuộc có liên hệ tuyến tính với toàn bộ tập hợp các biến độc lập hay không. Kết quả kiểm định mức độ phù hợp của mô hình cho thấy mô hình có thống kê F được tính từ R2 của mô hình đầy đủ với giá trị Sig. rất nhỏ (Sig. < 0.05) cho thấy ta sẽ an toàn khi kết luận là kết hợp của các biến hiện có trong mô hình có thể giải thích được thay đổi của biến phụ thuộc, điều này cũng có nghĩa là mô hình ta xây dựng phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng
File đính kèm:
- cam_nhan_ve_cong_bang_anh_huong_den_su_hai_long_cua_sinh_vie.pdf