Cách mạng công nghiệp 4.0 - Xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0)
với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao
độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lí - sinh học với sự
đột phá của Internet vạn vật và Trí tuệ nhân tạo mà đặc
điểm là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa của
số hóa. Thực tế này mở ra những cơ hội và cả thách thức
rất lớn cho các cơ sở đào tạo nhằm đáp ứng nguồn nhân
lực trong thời kì công nghệ số.
Giáo dục trực tuyến mang nhiều ưu điểm vượt trội
trong đào tạo đã làm thay đổi mạnh mẽ quá trình tự học
do khả năng cá nhân hóa cũng như đáp ứng hiệu quả các
hoạt động học tập của người học. Giáo dục trực tuyến và
xây dựng môi trường học tập trực tuyến hiện đang được
quan tâm chú ý và đưa vào triển khai trong nhiều trường
đại học, các cơ sở đào tạo ở Việt Nam với phạm vi, mức
độ khác nhau.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, việc xây dựng
môi trường học tập trực tuyến hiện đại, xây dựng các nội
dung dạy học trực tuyến được phát triển theo hướng ngày
càng tiếp cận gần hơn với người học; người học có thể
khai thác nội dung học tập trực tuyến từ thiết bị di động,
thiết bị công nghệ thông tin (CNTT), hay học tập trong
mô hình trường “trường học ảo” ở bất kì đâu, bất kì lúc
nào khi công nghệ truyền thông được kết nối, đặc biệt
với nền tảng công nghệ của CMCN 4.0 đang bùng nổ
hiện nay là xu thế tất yếu trong giáo dục hiện đại.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách mạng công nghiệp 4.0 - Xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến
yền thống sang đổi mới phương pháp học. Nó đặt ra học tập suốt đời càng quan trọng hơn kiến thức của yêu cầu lớn biến đổi vai trò người dạy truyền thụ kiến chương trình đào tạo. thức theo cách truyền thống sang vai trò xúc tác và điều phối. Sự biến đổi này buộc người dạy đối diện với Một vấn đề khác đặt ra cho các cơ sở đào tạo là cách nhiệm vụ mới một cách linh hoạt hơn và cần được đào thức tổ chức để chuyển tải nội dung chương trình đào tạo tạo bồi dưỡng lại cho các nhiệm vụ rất mới mẻ này. Vai đến người học. CMCN 4.0 đòi hỏi phương thức và trò người dạy đã và đang tiếp tục thay đổi từ địa vị phương pháp đào tạo thay đổi với sự ứng dụng mạnh mẽ người dạy sang người thiết kế, cố vấn, huấn luyện và của CNTT, công nghệ kĩ thuật số, hệ thống mạng và các tạo ra môi trường học tập. hệ thống thông minh. Và các hình thức đào tạo trực 44 VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 43-46; 19 tuyến, đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng,... sẽ là xu mô lớn (MOOC - Massive Online Open Course) nổi tiếng hướng đào tạo nghề nghiệp trong tương lai. nhất, có thể kể đến như: Coursera, edX và Udacity. Việc xác định vai trò của người dạy trong học tập nối mạng, giá trị của người dạy không phải là thông qua giảng dạy mà thông qua hướng dẫn và tạo điều kiện người học trở thành những người học tự định hướng [6]. Sự đa dạng hóa các mô hình dạy học, đa dạng hóa các phương pháp và tiêu chuẩn tuyển chọn là rất quan trọng đối với cả việc đáp ứng nhu cầu và việc cung cấp cho người học một nền tảng để lựa chọn và sự chiếm lĩnh kiến thức. Chất lượng trong giáo dục là một khái niệm đa Hình 2. Quy mô của thị trường giáo dục trực tuyến chiều, bao trùm mọi chức năng và hoạt động của nó: thế giới (nguồn: The Economist) giảng dạy và các chương trình đào tạo, nghiên cứu và học Giáo dục trực tuyến được du nhập vào Việt Nam từ thuật, cấu trúc hạ tầng và môi trường học thuật [7]. khá sớm. Trước năm 2010, đã có các đơn vị tiên phong Trong xã hội đa dạng, người dạy phải coi mỗi người tìm kiếm cơ hội kinh doanh với mô hình này như: học là một cá nhân và xúc tác việc học của họ dựa trên Violet.vn, Hocmai.vn, TOPICA..., phần lớn đi theo mô hứng thú của từng người. Người làm công tác dạy học hình e-learning (hình 3). Đến năm 2012, Bộ GD-ĐT khởi phải là chuyên gia kiến thức, biết lắng nghe và giao tiếp động dự án đại học ảo, tuy nhiên dự án này đang được hiệu quả, kèm cặp huấn luyện, xúc tác, giải quyết vấn đề, đánh giá về tính khả dụng trong thực hiện. thiết kế, hỗ trợ và điều phối các nguồn lực học tập. Như vậy, CMCN 4.0 đang đặt ra những yêu cầu mới cho nguồn nhân lực tương lai. Điều này đòi hỏi hệ thống giáo dục Việt Nam cần đổi mới để có thể tạo ra những nguồn nhân lực có năng lực chuyên môn và năng lực nghề nghiệp vượt trội, có khả năng làm việc, vận hành với công nghệ thông minh để có thể đáp ứng thị trường việc làm và tận dụng tốt các cơ hội của thời kì công nghiệp 4.0. Các cơ sở giáo dục cần xây dựng nền tảng trong đào tạo theo Hình 3. Mô hình giáo dục trực tuyến hướng đổi mới và tiếp cận những công nghệ số, đổi mới CMCN 4.0 cùng các thiết bị thông minh đã hình mô hình và phương thức dạy học, đồng thời cần trang bị thành mô hình trường học trực tuyến với những ưu điểm cho người dạy những kiến thức và kĩ năng cần có về công nổi bật với chương trình luôn thay đổi và được cập nhật nghệ để thiết lập và triển khai các khóa học với nền tảng thường xuyên hoàn toàn tương thích với sự phát triển của công nghệ số nhằm tạo ra nguồn nhân lực lao động có CMCN 4.0. khuynh hướng được đào tạo với những kiến thức và năng lực chuyên môn sát với thực tiễn của môi trường lao động 2.3.1. Thời cơ và thách thức với giáo dục trực tuyến trong thời kì công nghiệp 4.0. Giáo dục là một trong những lĩnh vực chịu sự tác 2.3. Giáo dục trực tuyến - Mô hình tiềm năng động này nhanh hơn cả bởi chính giáo dục cũng sẽ tạo ra những phiên bản mới của các cuộc CMCN tiếp theo. Sự ra đời của internet cùng với bước ngoặt của cuộc Công nghiệp 4.0 hứa hẹn những bước đột phá mới trong CMCN 4.0, giáo dục trực tuyến có thể xóa đi mọi rào hoạt động đào tạo, thay đổi mục tiêu đào tạo, mô hình cản. Bất cứ ai có kiến thức, khả năng truyền đạt tốt đều đào tạo truyền thống bằng cách chuyển tải và đào tạo kiến có thể trở thành người đi dạy và bất cứ ai có nhu cầu học thức hoàn toàn mới. Sự phát triển CNTT, công cụ kĩ thuật tập đều có thể đi học. số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những Theo nghiên cứu của Global Industry Analysts, thị công cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức trường giáo dục trực tuyến toàn cầu đạt hơn 100 tỉ USD và phương pháp giảng dạy. (năm 2016). Theo The Economist, số người đăng kí học Các lớp học truyền thống với những nhược điểm như: trực tuyến trên thế giới đạt 60 triệu (năm 2016) người và dự chi phí tổ chức cao, không gian phục vụ hạn chế, không báo đạt 70 triệu người trong năm nay (hình 2). Với nhiều đại thuận lợi cho một số đối tượng... sẽ được thay thế bằng học danh tiếng trên thế giới, Mĩ hiện là quốc gia có nhiều các lớp học trực tuyến, lớp học ảo. Chất lượng đào tạo doanh nghiệp cung cấp dịch vụ các khóa học trực tuyến quy trực tuyến được kiểm soát dễ dàng bằng các công cụ hỗ 45 VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 43-46; 19 trợ, như các cảm biến và kết nối không gian mạng. và ứng dụng loại hình đào tạo này đang được quan tâm Không gian học tập cũng sẽ đa dạng hơn, thay vì những ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới, phòng thí nghiệm hay phòng mô phỏng truyền thống, thì giáo dục trực tuyến (e-learning) ở Việt Nam mới chỉ ở người học có thể trải nghiệm học tập bằng không gian ảo, giai đoạn đầu và còn rất nhiều việc phải làm để có thể có thể tương tác trong điều kiện như thật thông qua các tiến kịp các nước. Sự ra đời của CMCN 4.0 sẽ tạo đà phần mềm và hệ thống mạng. Dữ liệu lớn (Big Data) sẽ cho phát triển mô hình dạy học trực tuyến mạnh mẽ hơn là nguồn dữ liệu vô tận để học tập trải nghiệm về phân cho các trường học. tích, nhận dạng xu hướng ở mức chính xác cao. Tài Chủ trương của Bộ GD-ĐT trong giai đoạn tới là tích nguyên học tập số trong điều kiện kết nối không gian thật cực triển khai các hoạt động xây dựng một xã hội học và ảo sẽ vô cùng phong phú, không gian thư viện không tập, mà ở đó mọi công dân (từ học sinh phổ thông, người còn là địa điểm cụ thể nữa, mà thư viện có thể khai thác học, các tầng lớp người lao động,...) đều có cơ hội được ở mọi nơi với một số thao tác đơn giản. Chương trình học học tập, hướng tới việc: học bất kì thứ gì (any things), bất cũng được thiết kế đa dạng hơn, cụ thể hơn và đáp ứng kì lúc nào (any time), bất kì nơi đâu (any where) và học tốt hơn nhu cầu của người học. tập suốt đời (life long learning). Để thực hiện được các Đi cùng với sự phát triển của CMCN 4.0 sẽ kéo theo mục tiêu nêu trên, giáo dục trực tuyến nên có một vai trò sự thay đổi chính sách đầu tư về nền tảng, trang thiết bị, chủ đạo trong việc tạo ra một môi trường học tập ảo. máy móc và công nghệ để các lĩnh vực có thể vận hành Như vậy, CMCN 4.0 đã góp phần tác động đến hoạt được trong đó giáo dục nói chung và giáo dục trực tuyến động đào tạo đối với các cơ sở giáo dục đã làm thay đổi nói riêng cũng không là ngoại lệ. trong lựa chọn mô hình, phương thức đào tạo theo Bản chất của mô hình giáo dục trực tuyến được triển hướng “trường học ảo”, “lớp học kết nối” kéo theo sự khai dựa trên nên tảng của khoa học công nghệ mà cốt lõi là thay đổi từ thiết lập nền tảng mô hình, xây dựng chương CNTT và truyền thông hướng đến nhu cầu tự học của người trình, cập nhật nội dung các khóa học cho đến đào tạo học với sự hỗ trợ và tương tác của các sản phẩm phần mềm năng lực, kĩ năng cho người học để đáp ứng yêu cầu về dạy học. Chính vì vậy, khi cuộc CMCN 4.0 đã kích hoạt sẽ nguồn lực với thị trường công nghiệp trong thời kì số tạo đà cho việc ứng dụng các sản phẩm công nghệ hướng tự hóa mà đặc trưng của mô hình giáo dục trực tuyến có động hóa và bản thân giáo dục trực tuyến là một mô hình thể cung ứng hiệu quả hơn hẳn mô hình giáo dục truyền tiềm năng được triển khai trên nền tảng đó. thống. Khả năng tương tác của mô hình đào tạo trực Trong đào tạo trực tuyến, việc thẩm định chương tuyến được đẩy mạnh, với sự kết nối giữa người dạy và trình đào tạo là cần thiết để xây dựng nội dung và kịch người học với phương thức cá nhân hóa người học trong bản cho các khóa học và các bài giảng; tạo ra môi trường phát triển năng lực, kĩ năng, tính sáng tạo, khả năng vận học tập tương tác đa chiều với nền tảng của công nghệ dụng tạo ra nguồn lực lao động có tay nghề đáp ứng môi mà cốt lõi là ICT, người học được khai phá, lĩnh hội trường công việc hướng tự động hóa trong kỉ nguyên những kiến thức, được thực hành, thí nghiệm thông qua công nghệ số hiện nay. các mô hình mô phỏng, được đánh giá năng lực học tập,... 3. Kết luận Tuy nhiên, hình thức này khi triển khai cũng có những Cuộc CMCN 4.0 với xu hướng phát triển dựa trên khó khăn nhất định, đó chính là khối lượng đầu tư và nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa với công nghệ khá tốn kém về cả công sức và giá thành, bởi sự đột phá của Internet vạn vật và Trí tuệ nhân tạo mà công nghệ lạc hậu và thay đổi rất nhanh. đặc điểm là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa 2.3.2. Xã hội hóa trong giáo dục trực tuyến của số hóa với đặc trưng là CNTT. Thực tế này mở ra Trên thực tế, giáo dục trực tuyến đã không còn mới những cơ hội và cả thách thức rất lớn cho các cơ sở đào mẻ ở các nước trên thế giới, song ở Việt Nam mới chỉ bắt tạo nhằm đáp ứng nguồn nhân lực lao động có trình độ, đầu phát triển một số năm gần đây, đồng thời với việc kết có năng lực nghề nghiệp và khả năng tiếp cận, làm việc nối internet băng thông rộng được triển khai mạnh mẽ tới và vận hành các hệ thống thông minh trong thời kì công tất cả các trường học. Sự hữu ích, tiện lợi của giáo dục nghệ số. trực tuyến đã được khẳng định nhưng để đạt được thành Sự bùng nổ của CMCN 4.0 sẽ tác động tích cực làm công, các cấp quản lí cần có những quyết sách hợp lí. thay đổi mô hình và phương thức đào tạo tiên tiến, trong Việt Nam đã gia nhập Mạng E-learning châu Á đó giáo dục trực tuyến là một lựa chọn phù hợp với thời (Asia E-learning Network - AEN) với sự tham gia của đại và cần được triển khai rộng khắp đối với các cơ sở Bộ GD-ĐT, Bộ Khoa học - Công nghệ, Bộ Bưu chính - đào tạo ở Việt Nam hiện nay. Viễn thông,... Điều này cho thấy, tình hình nghiên cứu (Xem tiếp trang 19) 46 VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 15-19 GD-ĐT, theo chúng tôi các nhóm giải pháp mà chúng tôi [4] Nguyễn Thanh (2005). Phát triển nguồn nhân lực đề xuất trong bài viết là cơ sở để các trường đại học sư phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. phạm nghiên cứu và áp dụng một cách cụ thể, linh hoạt NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. góp phần nâng cao chất lượng ĐTGV THPT trong bối [5] Vũ Minh Mão - Hoàng Xuân Hoà (2004) . Dân số và cảnh hiện nay. chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế. Tạp chí Cộng sản, số 709, tr 65. Tài liệu tham khảo [6] Trần Khánh Đức (2004). Quản lí và kiểm định chất lượng [1] Tennessee - Dallas (2012). Introduction: From đào tạo nhân lực theo ISO&TQM. NXB Giáo dục. Quality Assurance to Quality Culture. In Quality Assurance and Teacher Education, ed J. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0... [2] Quốc hội (2009). Luật Giáo dục. NXB Chính trị (Tiếp theo trang 46) Quốc gia - Sự thật. [3] Phạm Kim Anh (2016). Thực trạng năng lực đội ngũ Mỗi khi mô hình giáo dục tiên tiến được vận dụng sẽ giáo viên phổ thông trung học trước yêu cầu đổi mới kéo theo những thay đổi về thiết kế hệ thống mang tính tổng giáo dục phổ thông. Kỉ yếu hội thảo quốc tế, Trường thể với chương trình linh động hơn, kiến thức cập nhật hơn, Đại học Sư phạm Hà Nội, 12/2016, tr 58-65. hướng tới phát triển các kĩ năng, năng lực phát triển tư duy [4] Bộ GD-ĐT (2015). Những vấn đề chung về phát hệ thống và liên ngành theo hướng số hóa tạo ra nguồn nhân triển chương trình đào tạo giáo viên (Tài liệu tập lực lao động chất lượng đáp ứng xu thế của thị trường công huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo giáo viên nghiệp 4.0 với những công nghệ vuợt trội của trí tuệ nhân phổ thông về phát triển chương trình đào tạo). tạo, của người máy và internet vạn vật. [5] Đặng Thành Hưng (2012). Năng lực và giáo dục theo tiếp cận năng lực. Tạp chí Quản lí giáo dục, số Tài liệu tham khảo 43, 12/2012, tr 18-26. [6] Chính phủ (2005). Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP [1] Hermann, Pentek - Otto (2016). Design Principles ngày 2/11/2005 về đổi mới căn bản toàn diện giáo for Industrie 4.0. Scenarios IEEE: 10.1109/ dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. HICSS.2016.488. [7] Nguyễn Cảnh Toàn (1998). Tự giáo dục, tự học, tự [2] Weller - Anderson (2013). Digital resilience in nghiên cứu. NXB Giáo dục. higher education. European Journal of Open, Distance and E-Learning, Vol 16 (1), pp. 53-66. [3] Weinberger - Fischer - Mandl (2002). Fostering NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC... (Tiếp theo trang 21) individual transfer and knowledge convergence in text-based computer-mediated communication. Proceedings of CSCL 2002. Mahwah, NJ: Suốt đời phải gắn liền lí luận với công tác thực tế. Lawrence Erlbaum. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi” [4] Lu J - Lu C - Yu CS - Yao JE (2014). Fostering [1; tr 215]. Lênin, trong tác phẩm “Thà ít mà tốt” cũng individual transfer and knowledge convergence in đã đề cao vai trò của việc học tập khi nhấn mạnh rằng: text-based computer-mediated communication. In “Không có cách nào khác ngoài việc học tập,... học tập,... G. Stahl (Ed.), Pedagogical Roles and học tập mãi và phải làm sao cho việc học tập thực sự ăn Competencies of University Teachers Practicing in sâu vào tiềm thức của mỗi người, hoàn toàn và thực tế the E-Learning Environment 2014. trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống” [2]. [5] A. Abdelrazeq - D. Janssen - C. Tummel - A. Richert - S. Jeschke (2016). Teacher 4.0: Tài liệu tham khảo Requirements of the teacher of the future in context [1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997). Hồ Chí Minh toàn of the fourth industrial revolution. ICERI 2016. tập (tập 8). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [6] Jayendrakumar N. Amin1 (2016). Redefining the [2] Đỗ Tư (2001). Thà ít mà tốt - Di chúc chính trị cuối Role of Teachers in the Digital Era. The cùng của Lênin. Tạp chí Lí luận Chính trị, số 4, tr 3. International Journal of Indian Psychology, Vol 3, [3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội Issues 3, No 6, pp. 40-45. đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc [7] Trần Khánh Đức (2014). Giáo dục và phát triển nguồn gia - Sự thật. nhân lực trong thế kỉ XXI. NXB Giáo dục Việt Nam. 19
File đính kèm:
- cach_mang_cong_nghiep_4_0_xu_the_phat_trien_cua_giao_duc_tru.pdf