Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng trực tuyến của người Việt Nam nghiên cứu tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng trực tuyến của người Việt Nam
nói chung và cụ thể là những người sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu tiến hành với cỡ mẫu
là 315, dữ liệu được phân tích theo quy trình từ kiểm định độ tin cậy của thang đo lường, phân tích nhân
tố đến phân tích hồi quy: yếu tố ảnh hưởng cao nhất đến ý định đặt phòng trực tuyến là mong đợi về giá
cả, sau đó lần lượt là nhận thức tính dễ sử dụng, cảm nhận niềm tin, nhận thức rủi ro liên quan đến giao
dịch trực tuyến, hệ thống thanh toán và nhận thức về sự hữu ích có tác động thấp nhất. Nếu muốn thúc
đẩy ngành du lịch điện tử có bước tiến rõ rệt thì các nhà cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp nên quan tâm
đến các yếu tố trên để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng trực tuyến của người Việt Nam nghiên cứu tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
ợc thấy. .877 RR5 Tôi lo lắng mất thêm chi phí cho việc thay đổi khách sạn khi chất lượng không đảm bảo. .844 RR3 Tôi lo lắng thông tin cá nhân không được bảo mật. .810 RR4 Tôi lo lắng thông tin tài chính, giao dịch không được bảo mật. .739 Giá cả GC (+) GC1 Khi đặt phòng khách sạn trực tuyến, tôi quan tâm nhiều đến giá cả. .822 GC5 Tôi thấy giá cả trên hệ thống đặt phòng trực tuyến đa dạng, phù hợp với nhiều tầng lớp dân cư. .783 GC2 Khi đặt phòng khách sạn trực tuyến, tôi sẽ tham khảo và so sánh giá cả giữa các hệ thống đặt phòng khách sạn khác nhau và chọn nơi có giá rẻ nhất. .749 GC3 Khi đặt phòng trực tuyến, tôi có được giá tốt hơn so với đặt phòng truyền thống. .737 Niềm tin NT (+) NT1 Tôi có niềm tin vào thương hiệu và uy tín của trang web hay ứng dụng đặt phòng khách sạn trực tuyến. .876 NT3 Tôi có niềm tin vào hoạt động đặt phòng trực tuyến và hệ thống bảo mật. .872 NT5 Tôi cảm thấy hệ thống đặt phòng trực tuyến luôn cố gắng thõa mãn .860 SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 126 Tên biến và kì vọng Kí hiệu Tên các nhân tố Nhóm nhân tố 1 2 3 4 5 6 nhu cầu, mong muốn của khách hàng. Hệ thống thanh toán TT (+) TT1 Tôi thấy quy trình thực hiện thanh toán đơn giản, nhanh chóng. .881 TT3 Tôi thấy các hình thức thanh toán phù hợp với thói quen của tôi. .877 TT4 Việc thanh toán khi đặt phòng khách sạn trên mạng nói chung thuận tiện. .833 Nguồn: kết quả xử lí số liệu khảo sát 2020 3.4. Phân tích hồi quy Trước khi tiến hành phân tích hồi quy, tác giả sử dụng hệ số Pearson để xem xét các mối tương quan giữa tất cả các biến, xem xét tổng quát mối quan hệ giữa từng biến độc lập với biến phụ thuộc và giữa biến độc lập với nhau. Ma trận hệ số tương quan cho thấy, có mối tương quan khá chặt giữa biến phụ thuộc ý định đặt phòng trực tuyến (YD) với các biến độc lập (HI, SD, NT, TT, RR, GC) với độ tin cậy 99% (tất cả các biến đều có giá trị Sig. < 0.05). Bảng 4. Kết quả phân tích tương quan Pearson Correlations YD HI SD NT TT RR GC Y Pearson Correlation 1 .383** .573** .405** .321** -.251** .623** Sig. (2-tailed) .000 .000 .000 .000 .000 .000 N 315 315 315 315 315 315 315 Nguồn: kết quả xử lí số liệu khảo sát 2020 Kết quả mô hình hồi quy bội cho thấy hệ số xác định R2, R2 hiệu chỉnh và sai số chuẩn đều đạt yêu cầu với R2 = 0.618, R2 hiệu chỉnh = 0.611 tức là 6 biến độc lập HI, SD, NT, TT, RR, GC giải thích 61.1% sự biến thiên của biến phụ thuộc YD, còn lại 38.9% là do các biến ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên. Hệ số Durbin - Watson = 1.888 gần bằng 2, tức là mô hình không có hiện tượng tự tương quan. NGÔ THỊ LAN - NGUYỄN THỊ MỸ HUYỀN - NGÔ HOÀNG ĐAN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 127 Bảng 5. Kết quả phân tích hồi quy Coefficientsa Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. Collinearity Statistics B Std. Error Beta Tolerance VIF 1 Constant .892 .172 5.198 .000 HI .085 .028 .116 3.041 .003 .847 1.181 SD .266 .030 .346 8.962 .000 .831 1.203 NT .113 .025 .167 4.448 .000 .881 1.135 TT .078 .023 .129 3.474 .001 .906 1.104 RR -.106 .027 -.141 -3.936 .000 .969 1.032 GC .330 .036 .370 9.284 .000 .779 1.284 a. Dependent Variable: YD Nguồn: kết quả xử lí số liệu khảo sát 2020 Kiểm định F (bảng ANOVA) với Sig. = .000. Như vậy, mô hình hồi quy phù hợp với tổng thể. Giá trị Sig. của các yếu tố đều nhỏ hơn 0.05, nghĩa là các biến độc lập đều có ý nghĩa giải thích cho biến phụ thuộc YD trong mô hình. Các giá trị VIF đều nhỏ hơn 2, do vậy giữa các khái niệm độc lập không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến. Mức độ tác động của các yếu tố đến ý định đặt phòng trực tuyến được xếp theo thứ tự giảm dần như sau: mong đợi về giá cả có mức tác động cao nhất với Beta là 0.370, tiếp đến lần lượt là nhận thức tính dễ sử dụng (Beta = 0.346), cảm nhận niềm tin (Beta = 0.167), nhận thức rủi ro liên quan đến giao dịch trực tuyến (Beta = -0.141), hệ thống thanh toán (Beta = 0.129) và nhận thức về sự hữu ích (Beta = 0.116). Trong việc dò tìm sự vi phạm các giả định hồi quy tuyến tính, biểu đồ phân tán Scatterplot cho thấy, phần dư không thay đổi theo một trật tự nào đối với giá trị dự đoán, chúng phân tán ngẫu nhiên chứ không tạo thành một hình dạng nào, giả thuyết về liên hệ tuyến tính không bị vi phạm. Hệ số tương quan hạng Spearman của giá trị tuyệt đối phần dư và các biến độc lập: giá trị Sig. của các hệ số tương quan với độ tin cậy 95% đều lớn hơn 0.05. Kết quả này cho thấy phương sai của sai số không thay đổi, giả định không bị vi phạm. Biểu đồ Histogram cho thấy, phần dư có phân phối chuẩn với giá trị trung bình rất nhỏ, gần bằng (Mean = -3,79E-16) và độ lệch chuẩn của nó gần bằng 1 (SD=0.990), đồ thị P-P plot biểu diễn các điểm quan sát thực tế tập trung sát đường chéo những giá trị kì vọng, có nghĩa là dữ liệu phần dư có phân phối chuẩn 3.5. Kiểm định sự khác biệt theo các đặc điểm nhân khẩu học Nghiên cứu sử dụng mô hình t-test để kiểm định sự khác biệt giữa trung bình hai đám đông, cụ thể là nhóm giới tính, nhóm NGÔ THỊ LAN - NGUYỄN THỊ MỸ HUYỀN - NGÔ HOÀNG ĐAN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 128 đã từng đặt phòng trực tuyến hay chưa và mô hình ANOVA để so sánh trung bình từ ba đám đông trở lên như nơi ở, độ tuổi, tình trạng gia đình, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả kết luận: - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các đặc điểm cá nhân về giới tính, trong đó nhóm giới tính nữ có ý định đặt phòng nhiều hơn nhóm giới tính nam. - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các đặc điểm cá nhân về nhóm tuổi, trong đó nhóm tuổi từ 26 – 35 tuổi có ý định đặt phòng cao nhất trong tất cả các nhóm tuổi còn lại. - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các đặc điểm cá nhân về tình trạng gia đình, trong đó nhóm độc thân có ý định đặt phòng nhiều hơn nhóm có gia đình, chưa có con và nhóm có gia đình, có con. - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các đặc điểm cá nhân về trình độ học vấn, trong đó nhóm trình độ đại học và sau đại học có ý định đặt phòng nhiều hơn nhóm cao đẳng, trung học phổ thông và trung cấp nghề. - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các đặc điểm cá nhân về nghề nghiệp, cụ thể nhóm cá nhân kinh doanh tự do có ý định đặt phòng cao nhất so với các nhóm nghề nghiệp còn lại. - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các đặc điểm cá nhân về thu nhập, cụ thể nhóm cá nhân có thu nhập trên 20 triệu đồng có ý định đặt phòng cao hơn so với các nhóm thu nhập dưới 20 triệu đồng. - Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các đặc điểm cá nhân về nhóm nơi ở. 3.6. Phân tích kết quả Kết quả nghiên cứu cho biết, mong đợi về giá cả có tác động thuận chiều lên ý định đặt phòng khách sạn trực tuyến, nghĩa là nếu mong đợi về giá cả tăng lên 1 đơn vị thì ý định đặt phòng trực tuyến tăng lên 0.330 đơn vị (cao nhất trong số các yếu tố). Điều này chứng tỏ yếu tố về giá cả ảnh hưởng lớn nhất và mạnh nhất đến việc thôi thúc ý định; bao gồm: quan tâm đến giá cả, tham khảo và so sánh giá giữa các hệ thống đặt phòng khác, được giá tốt hơn so với đặt phòng truyền thống và mức độ đa dạng của các mức giá, phù hợp với nhiều tầng lớp. Yếu tố tác động mạnh hàng thứ hai sau mong đợi giá cả là nhận thức tính dễ sử dụng. Nếu nhận thức tính dễ sử dụng tăng lên 1 đơn vị thì ý định đặt phòng trực tuyến sẽ tăng lên 0.266 đơn vị. Nếu tính dễ sử dụng càng cao, không phức tạp hay gây khó khăn cho người tiêu dùng khi sử dụng thì ý định đặt phòng trực tuyến của họ càng cao. Các cảm nhận của người tiêu dùng về tính dễ sử dụng: quy trình đặt phòng nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng thay đổi hoặc hủy phòng, tìm kiếm thông tin, giao diện của hệ thống thân thiện, dễ sử dụng. Yếu tố cảm nhận niềm tin có tác động đứng hàng thứ ba. Nếu cảm nhận niềm tin tăng lên 1 đơn vị thì ý định đặt phòng trực tuyến sẽ tăng lên 0.113 đơn vị. Thiếu niềm tin, thiếu cảm giác an toàn sẽ làm giảm cơ hội người dùng tham gia đặt phòng trực tuyến. Các biến quan sát của cảm nhận niềm tin là: niềm tin vào uy tín, thương hiệu của hệ thống đặt phòng trực tuyến, hệ thống bảo mật, khả năng thỏa mãn nhu cầu, mong muốn của khách hàng. Yếu tố nhận thức rủi ro liên quan đến giao dịch trực tuyến có tác động hàng thứ tư đến ý định đặt phòng trực tuyến. Nhận thức rủi ro liên quan đến giao dịch trực tuyến có tác động ngược chiều lên ý định đặt phòng khách sạn trực tuyến. Nhận thức rủi ro liên quan đến giao dịch trực tuyến tăng lên 1 đơn vị thì biến phụ thuộc sẽ SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 74 (02/2021) 129 giảm đi 0.106 đơn vị. Những vấn đề làm người tiêu dùng e ngại khi đặt phòng trực tuyến: chất lượng không đảm bảo, không giống trong quảng cáo, thông tin cá nhân, thông tin tài chính, giao dịch không được bảo mật, ngoài ra có thể tốn thêm chi phí để thay đổi phòng khi chất lượng không đáp ứng được yêu cầu của người dùng. Thành phần hệ thống thanh toán có ảnh hưởng không lớn đến ý định đặt phòng trực tuyến. Cảm nhận về hệ thống thanh thanh toán tăng lên 1 đơn vị thì ý định đặt phòng sẽ tăng theo 0.078 đơn vị. Người tiêu dùng chỉ mong muốn khi đặt phòng trực tuyến thì quy trình thanh toán phải đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện và phù hợp với thói quen thanh toán của họ. Nhận thức về sự hữu ích có tác động nhỏ nhất đến ý định đặt phòng trực tuyến. Nhận thức về sự hữu ích tăng lên 1 đơn vị thì ý định đặt phòng trực tuyến sẽ tăng lên 0.085 đơn vị. Điều này cho thấy người tiêu dùng chưa thật sự cảm nhận được nhiều sự hữu ích, tiện lợi của việc đặt phòng trực tuyến. Người tiêu dùng cần thấy rõ việc đặt phòng trực tuyến giúp họ tiết kiệm được thời gian, có thể đặt phòng mọi lúc mọi nơi, họ có nhiều sự lựa chọn khi sử dụng hệ thống đặt phòng trực tuyến, đồng thời thông tin về phòng khách sạn phải luôn được cập nhật. 3.7. So sánh với các công trình nghiên cứu trước Thành phần nhận thức về sự hữu ích, nhận thức tính dễ sử dụng có tác động thuận chiều lên ý định đặt phòng khách sạn trực tuyến. Kết quả này cũng tương tự với kết quả của công trình Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng khách sạn trực tuyến của người Việt Nam – Nghiên cứu tại địa bàn Đà Nẵng (Lê Thanh Hồng, 2016). So với công trình Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng khách sạn trực tuyến của người Việt Nam – Nghiên cứu tại địa bàn Đà Nẵng (Lê Thanh Hồng, 2016), tác giả đã thêm vào mô hình nghiên cứu 3 yếu tố: cảm nhận niềm tin, hệ thống thanh toán và mong đợi về giá cả. Kế thừa và phát huy công trình nghiên cứu nói trên của tác giả Lê Thanh Hồng quyết định kết hợp giữa nhận thức rủi ro về hàng hóa/dịch vụ và nhận thức rủi ro giao dịch trực tuyến thành yếu tố nhận thức rủi ro liên quan đến giao dịch trực tuyến (Lê Thanh Hồng, 2016). Kết quả nghiên cứu cho thấy: - 3 yếu tố cảm nhận niềm tin, hệ thống thanh toán, nhận thức rủi ro liên quan đến giao dịch trực tuyến có tác động thuận chiều lên ý định đặt phòng khách sạn trực tuyến, tương tự với kết quả của công trình Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng khách sạn qua mạng của khách du lịch nội địa (Võ Thái Minh, 2016). - Yếu tố mong đợi về giá cả có tác động thuận chiều lên ý định đặt phòng khách sạn trực tuyến. Kết quả tương đồng được tìm thấy ở công trình nghiên cứu Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng khách sạn qua mạng của khách du lịch nội địa (Võ Thái Minh, 2013). 4. Kết luận và kiến nghị Ý định đặt phòng của người tiêu dùng đóng vai trò quan trọng, thôi thúc đưa ra quyết định chính thức. Ý định càng cao thì quyết định đặt phòng càng chắc chắn hơn. Chứng tỏ, ý định đặt phòng là yếu tố quan trọng mà doanh nghiệp cần chú ý để nâng cao khả năng thành công của mình trên thị trường. Kết quả nghiên cứu thu được từ việc khảo sát 315 người tiêu dùng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Dựa vào các tác động của các yếu tố, nghiên cứu đề xuất một số các giải pháp nhằm gia tăng ý định đặt phòng trực tuyến NGÔ THỊ LAN - NGUYỄN THỊ MỸ HUYỀN - NGÔ HOÀNG ĐAN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 130 trong thời gian tới: điều chỉnh mức giá mang tính cạnh tranh; cải tiến hệ thống đặt phòng sao cho quy trình đặt phòng và sử dụng trở nên dễ dàng, quy trình thanh toán nhanh gọn; nâng cao dịch vụ hỗ trợ khách hàng; nâng cao khả năng bảo mật của hệ thống, tránh làm rò rỉ thông tin cá nhân, tài chính, thanh toán của khách hàng; đảm bảo chất lượng dịch vụ như những gì đã quảng cáo; tăng cường quảng bá các tính năng hữu ích của hệ thống đặt phòng nhằm nâng cao uy tín cho thương hiệu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50(2), 179-211. Bakar, A. R. A., & Hashim, F. (2008). The Determinants of Online Hotel Reservations among University Staffs. Communications of the IBIMA, 4, 13-21. Bauer, R. A. (1967). Consumer behavior as risk taking. In Marketing: Critical Perspectives on Business and Management. Chatchotitham, T., & Soponprapapon, V. (2011). Consumer Behavior of Thai People Toward Hotel Reservation Online. David, F. D. (1985). A technology acceptance model for empirically testing new end-user information systems: Theory and results. Sloan School of Management. Lê Thanh Hồng (2016). Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng khách sạn trực tuyến của người Việt Nam - Nghiên cứu tại địa bàn Đà Nẵng. Trường Đại học Đà Nẵng. Ivanov, S. (2008). Conceptual Marketing Framework for Online Hotel Reservation System Design. Tourism Today, 8, 7-32. Lee, D., Park, J., & Ahn, J. (2001). On the explanation of factors affecting e-commerce adoption. Twenty-Second International Conference on Information Systems, 109-120. Võ Thái Minh (2013). Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ đặt phòng khách sạn qua mạng của khách du lịch nội địa. Trường Đại học Nha Trang. Mohamed, I. S., Aziz, N. H. A., & Omar, N. (2010). Determinants of Online Reservation Acceptance: An Empirical Study. International Journal of Arts and Sciences, 3(12). Moon, J.-W., & Kim, Y.-G. (2001). Extending the TAM for a World-Wide-Web context. Information & Management, 38, 217-230. Sumanjeet, S. (2009). Emergence of payment systems in the age of electronic commerce: The state of art. Global Journal of International Business Research, 2(2), 17-26. Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Thị Lệ Thủy (2019). Yếu tố ảnh hưởng đến ý định đặt phòng trực tuyến của khách du lịch nội địa. Tạp chí Tài chính. Ngày nhận bài: 01/7/2020 Biên tập xong: 15/02/2021 Duyệt đăng: 20/02/2021
File đính kèm:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_y_dinh_dat_phong_truc_tuyen_cua_ngu.pdf