Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên

Đại học Thái Nguyên đang trong quá trình hội nhập hướng tới chất lượng, đẳng cấp và trở thành

một trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hàng đầu ở Việt Nam và có

uy tín trong khu vực. Để thực hiện được mục tiêu đó, giảng dạy và học tập tiếng Anh là một trong

những yếu tố then chốt. Do đó, việc đánh giá chương trình giảng dạy, đảm bảo chất lượng, đảm

bảo các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tập tiếng Anh là một yêu cầu cần thiết và tất yếu.

Nghiên cứu này khảo sát, đánh giá thái độ, ý kiến của giảng viên tiếng Anh tại Đại học Thái

Nguyên về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh của sinh viên. Phương pháp định

lượng thông qua bảng câu hỏi khảo sát trong thu thập và phân tích dữ liệu sẽ cung cấp một cái nhìn

khá đầy đủ về đối tượng và thực tế giảng dạy tiếng Anh tại Đại học Thái Nguyên. Kết quả nghiên

cứu cho thấy giảng viên tiếng Anh tại Đại học Thái Nguyên khá hài lòng với công việc của mình,

các giảng viên đều có quan niệm đúng đắn về nghề nghiệp cũng như trách nhiệm với từng giờ

giảng trên lớp và các hoạt động ngoại khóa. Nghiên cứu cũng chỉ ra một số điểm cần cải tiến để

nâng cao chất lượng học tiếng Anh cho sinh viên như thiếu phòng thực hành tiếng, trang thiết bị

giảng dạy trên lớp cũng như nhu cầu cần có được tài liệu, giáo trình giảng dạy phù hợp với điều

kiện thực tiễn giảng dạy tại khu vực miền núi phía Bắc.

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên trang 1

Trang 1

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên trang 2

Trang 2

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên trang 3

Trang 3

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên trang 4

Trang 4

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên trang 5

Trang 5

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 3360
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tiếng Anh nhìn từ góc độ giảng viên
ảng viên 
trong nước và nước ngoài đang công tác tại 
Đại học Thái Nguyên. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Thái độ đối với nghề dạy học 
Phần lớn những người được hỏi (59%) cho 
biết họ đã có kế hoạch làm giảng viên tiếng 
Anh ngay từ khi mới ra trường. 86% số người 
được hỏi hài lòng với công việc mà mình đã 
chọn và 68% sẽ không thay đổi nghề giảng 
dạy nếu tìm thấy một nghề phù hợp hơn. 
Hơn một nửa số giáo viên được hỏi (59%) trả 
lời rằng nghề dạy học không mang lại vật chất 
nhưng 82% giảng viên cho rằng nghề này 
được xã hội đánh giá cao. 82% giảng viên 
thấy rằng việc giảng dạy dẫu thú vị nhưng 
mệt mỏi và 64% giảng viên thấy thỏa mãn với 
công việc của mình. Tất cả giảng viên khi 
được hỏi đều đồng ý rằng dạy học là một 
nghề đáng kính. 
Trong tổng số 73 giảng viên, 81% cảm thấy 
sự quan tâm của mình đối với nghề day học 
không giảm dù nhiều năm đã trôi qua. 
Khoảng 73% không cảm thấy hài lòng nếu chỉ 
một vài sinh viên học tập tiến bộ. Tất cả các 
giáo viên đều giao bài tập thêm cho sinh viên 
để giúp các em khắc phục điểm yếu. 
Nhìn chung, các giảng viên dường như khá 
hài lòng với công việc của mình mặc dù gần 
một nửa (41%) không có kế hoạch giảng dạy 
sau khi tốt nghiệp và không tìm thấy lợi ích 
vật chất đối với nghề. Sự hài lòng này dường 
như mang lại cho họ động lực để thực hiện 
các nhiệm vụ và trách nhiệm của mình như 
duy trì sự quan tâm của mình với nghề, muốn 
nhiều sinh viên tiến bộ hơn và giao thêm bài 
tập ở nhà cho sinh viên. 
3.2. Mối quan hệ với sinh viên 
Hai tính từ được sử dụng nhiều nhất để mô tả 
loại mối quan hệ giữa giảng viên và sinh viên là 
„kỷ luật‟ và „thân thiện‟. Tần suất sử dụng của 
sáu tính từ được sắp xếp theo thứ tự sau (số lựa 
chọn/tổng số): thân thiện (59), 'có kỷ luật' (48), 
nghiêm túc (45), hòa đồng (45), 'nghiêm khắc' 
(43) và „thấu hiểu‟ (31). Từ những số liệu này, 
chúng ta có thể hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa 
giảng viên và sinh viên. Giảng viên thích 'thân 
thiện' nhưng đồng thời cũng rất 'có kỷ luật'. 
Điều này có thể được giải thích bởi niềm tin 
phổ biến của người Việt Nam: giữa phụ huynh, 
giảng viên và sinh viên, rằng giảng viên là 
„người có quyền‟ trong lớp học và phải được 
tôn trọng. Mặc dù các thuật ngữ „nghiêm túc‟ và 
'hòa đồng' nhận được số lượng sử dụng bằng 
nhau, các từ như 'nghiêm khắc' và „thấu hiểu‟ có 
thể hiếm khi được sử dụng vì ý nghĩa mạnh mẽ 
của mỗi từ mang theo. 
Trong tổng số giảng viên được hỏi, 14% sẽ 
„chắc chắn‟ thực hiện mọi nỗ lực để tìm hiểu 
về nền tảng của sinh viên vào đầu học kỳ và 
41% nói rằng mình sẽ tìm hiểu khi thấy cần 
biết nhiều hơn. Gần 46% số giảng viên còn lại 
không thực hiện bất kỳ nỗ lực nào tìm hiểu về 
thông tin sinh viên. Về việc các giảng viên có 
sẵn sàng dành thêm thời gian để giúp đỡ 
những học sinh yếu hay không, 86% nói rằng 
mình sẽ làm nếu cảm thấy sinh viên thực sự 
cần giúp đỡ, và phần còn lại (14%) sẽ làm 
nhưng không làm việc ngoài giờ. Cuối cùng, 
trong khi chỉ có 9% giảng viên vẫn lạc quan 
và cố gắng giúp học sinh khắc phục điểm yếu, 
64% cảm thấy khó khăn để duy trì hoạt động 
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(04): 21 - 26 
 Email: jst@tnu.edu.vn 24 
như vậy. Những giảng viên còn lại (27%) thì 
cho rằng việc hỗ trợ sinh viên còn phụ thuộc 
vào bầu không khí chung của lớp. Hầu hết 
nhũng giảng viên khi được hỏi đều khá có 
trách nhiệm và sẵn sàng tiếp cận các sinh 
viên, đồng thời, có trách nhiệm liên quan đến 
công việc hàng ngày thể hiện sự chuyên 
nghiệp của các giảng viên. 
Đối với hai câu hỏi đầu tiên, các giảng viên 
cho thấy sự quan tâm và trách nhiệm đối với 
sinh viên ở mức độ trung bình, có nghĩa là 
trong nhiệm vụ chuyên môn của mình; tuy 
nhiên, giảng viên cảm thấy khó khăn để duy 
trì sự lạc quan và cố gắng giúp đỡ sinh viên, 
có thể vì các yếu tố liên quan đến bầu không 
khí chung hay phong trào của nhà trường và 
không nhất thiết là vì lý do giáo dục. 
3.3. Tính cách giảng viên 
Khi được hỏi giảng viên tự đánh giá tính cách 
của mình trong giảng dạy, các giảng viên đã 
phản hồi theo kết quả ở Bảng 1. 
Bảng 1. Tính cách của giảng viên 
Dễ tính 3,9 
Linh hoạt 4,1 
Mềm lòng 4,2 
Cứng nhắc 2,3 
Thân thiện 4,1 
Cảm thông 3,8 
Nghiêm túc 3,7 
Có tổ chức 4,4 
Kiên nhẫn 4,4 
Các giảng viên có xu hướng tự đánh giá trên 
thang điểm cao cho tất cả các mục ngoại trừ 
một mục: „cứng nhắc”. Lý do tại sao hầu hết 
giảng viên tự coi mình là ít „cứng nhắc‟ có thể 
liên quan đến yêu cầu mà giảng viên cần phải 
thực hiện linh hoạt trong giảng dạy và thể 
hiện trong nghề dạy học. 
3.4. Quan điểm của giảng viên về thực tế 
giảng dạy và điều kiện giảng dạy 
Bảng 2 bên dưới thể hiện quan điểm cũng như 
mức độ đánh giá từ cao đến thấp về thực tế 
giảng dạy cũng như điều kiện giảng dạy của 
mỗi giảng viên. 
Bảng 2. Thực tế giảng dạy và các điều kiện giảng dạy 
 Cao 
Trung 
bình 
Thấp 
Thực hành trên lớp 54,4 27,3 18,1 
Giáo trình 40,9 40,9 18,1 
Các hoạt động giảng dạy 54,5 27,3 18,2 
Phòng thực hành tiếng 4,5 31,8 31,8 
Các loại bài đọc 45,5 27,3 27,3 
Cơ sở vật chất 9,1 50 40,9 
Cơ hội thực hành tiếng 4,5 9,1 86,3 
Phản hồi từ người học 50 22,7 27,3 
Kiểm tra, đánh giá 81,8 4,5 13,6 
Thời gian học 36,3 9,1 54,6 
Mức độ sẵn sàng của giảng viên 86,3 - 13,6 
31,8% số giảng viên được hỏi cho biết mình 
chưa bao giờ được tiếp xúc hay giảng dạy 
trong phòng lab. Nhìn chung, giáo viên có vẻ 
hài lòng với hầu hết các khía cạnh giảng dạy / 
học tập. Tuy nhiên, phòng thực hành tiếng, cơ 
sở vật chất phục vụ giảng dạy và các cơ hội 
bên ngoài lớp học mà sinh viên được thực 
hành tiếng Anh nhận được đánh giá hài lòng 
tương đối thấp hơn. Mặt khác, các giảng viên 
khi được hỏi có vẻ khá hài lòng với cách họ 
đánh giá thành tích của sinh viên và sự sẵn 
sàng tư vấn cho sinh viên. Giảng viên cũng 
luôn sẵn sàng giảng dạy và giúp đỡ sinh viên 
học tập để đạt kết quả cao hơn. 
3.5. Quan điểm của giảng viên về chương 
trình học của sinh viên 
Trong tổng số giảng viên được hỏi, hơn một 
nửa (53%) cho biết rằng họ và những giáo 
viên tiếng Anh không biết rõ mục tiêu cụ thể 
giảng dạy tiếng Anh ở Việt Nam. Tuy nhiên, 
những gì các giảng viên này tin rằng mục 
đích dạy tiếng Anh cho sinh viên đại học có 
thể được tóm tắt như sau (số trong ngoặc sau 
mỗi cụm từ biểu thị số lần nó được đề cập 
trong bảng câu hỏi), để giúp sinh viên: 
a. bày tỏ suy nghĩ của mình dưới mọi hình 
thức - bằng văn bản hoặc nói (43) 
b. giao tiếp với mọi người (41) 
c. trong học đại học và sau đại học (25) 
d. trong nghề nghiệp của họ (35) 
e. đọc, viết, nghe và nói bằng tiếng Anh (với 
sự nhấn mạnh khác nhau về các kỹ năng) (35) 
f. biết về người nước ngoài và văn hóa (11). 
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(04): 21 - 26 
 Email: jst@tnu.edu.vn 25 
Trong tổng số giảng viên được hỏi, 91% cho 
biết Bộ môn, Khoa và Trường đã xác định mục 
tiêu cho việc dạy tiếng Anh trong trường. Trong 
số này, 95% nghĩ rằng những mục tiêu này phù 
hợp với mục tiêu của sinh viên, 80% cho rằng 
những mục tiêu này phù hợp với nhu cầu học 
tiếng Anh của sinh viên. Tuy nhiên, chỉ có 40% 
số người được hỏi cho biết họ được mời góp ý 
trong việc thiết lập các mục tiêu này. Khoảng 
90% giảng viên cho rằng thực tế giảng dạy đã 
phù hợp với các mục tiêu của khoa, trường và 
75% cảm thấy sinh viên nhận thức được các 
mục tiêu này khi học tiếng Anh. 
Trong tổng số người được hỏi, 68% nghĩ rằng 
sinh viên cảm thấy cần phải học tiếng Anh. 
Về việc tuân thủ giảng dạy theo đề cương, 
55% cho biết họ dạy theo đề cương chung của 
Khoa quy định nhưng việc giảng dạy cụ thể 
bài nào, bao lâu thì phụ thuộc vào giảng viên 
và đối tượng sinh viên; 41% giảng viên cho 
biết họ tuân theo một cách máy móc đề cương 
đã được duyệt. Chỉ có duy nhất một người 
được hỏi nói rằng anh ấy/cô ấy chỉ xem đề 
cương như một tài liệu tham khảo, còn dạy gì 
và dạy như thế nào là do tự mình quyết định 
miễn là đáp ứng được mục tiêu chuẩn đầu ra. 
Tất cả các giảng viên, (trừ một người) muốn 
có một đề cương chung, điều này hợp lý bởi 
thực tế là giáo viên cần phải biết yêu cầu môn 
học và chuẩn đầu ra và đồng thời có thể điều 
chỉnh hoạt động giảng dạy theo những gì có 
thể phù hợp và hiệu quả hơn trong những điều 
kiện nhất định. 
Khi được hỏi sinh viên có nên được tư vấn về 
nội dung và phương pháp của các khóa học 
ngoại ngữ, 50% số người được hỏi đồng ý. 
Tuy nhiên, cho dù hơn một nửa giáo viên tin 
rằng sinh viên muốn dành nhiều thời gian hơn 
để thảo luận về văn hóa của người nói tiếng 
Anh, 50% không tin rằng sinh viên có thể học 
tốt hơn nếu các khóa học tiếng Anh được lên 
kế hoạch theo một cách khác. 
Việc có một xu hướng chung là tin rằng tốt 
hơn là nên tham gia khóa học tiếng Anh trong 
thời gian dài hơn (trong 2-3 năm) so với khóa 
học 9-10 tín chỉ trong 1- 2 năm như hiện nay. 
Đây là điều dễ hiểu vì cả giảng viên và học 
sinh đều chịu áp lực hoàn thành nhiều lớp học 
cùng 1 lúc và sinh viên thì phải hoàn thành 
nhiều môn học cùng lúc với học tiếng Anh. 
3.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc học 
tiếng Anh 
Ngoài các yếu tố cụ thể được đề cập bên trên, 
các giáo viên cũng đã đánh giá mức độ quan 
trọng của một số yếu tố được coi là ảnh 
hưởng đến quá trình học tiếng Anh của sinh 
viên. Kết quả được trình bày trong Bảng 3. 
Bảng 3. Đánh giá của giáo viên về các yếu tố 
ảnh hưởng đến việc học tiếng Anh 
 Cao 
Trung 
bình 
Thấp 
Tuổi 72,7 4,5 22,7 
Giới tính 18,2 31,8 50 
Trình độ & nghề nghiệp của cha mẹ 95,5 4,5 - 
Số năm học tiếng Anh 72,8 13,6 13,6 
Kiến thức về tiếng Anh 90,9 9,1 - 
Thái độ đối với việc học tiếng Anh 86,4 4,5 9 
Thái độ đối với người nói tiếng Anh 72,8 18,2 9 
Tình hình học tập hiện tại 63,6 27,3 9,1 
Thái độ đối với tiếng Việt 31,8 40,9 27,2 
Tính cách của giáo viên 100 - - 
Chú trọng phát triển từng kỹ năng 100 - - 
Tài liệu học tập 95,5 4,5 - 
Phương pháp giảng dạy 100 - - 
Kiểm tra, đánh giá 95,5 4,5 - 
Cơ hội thực hành tiếng 100 - - 
Trong số mười lăm yếu tố được coi là ảnh 
hưởng đến việc học tiếng Anh của học sinh, bốn 
yếu tố được xếp hạng cao (100%) đó là tính 
cách của giáo viên, chú trọng phát triển từng kỹ 
năng, phương pháp giảng dạy và cơ hội thực 
hành tiếng. Tiếp đến là trình độ và nghề nghiệp 
của cha mẹ, tài liệu học tập, và các kiểm tra 
đánh giá (xếp hạng cao 96%). Kiến thức về 
tiếng Anh được 90% giảng viên xếp hạng cao 
và thái độ đối với việc học ngoại ngữ (86%). Độ 
tuổi, số năm học tiếng Anh và thái độ đối với 
người nói tiếng Anh tính trung bình được 73% 
số giảng viên xếp hạng cao. Cuối cùng là tình 
hình học tập hiện tại (64%). Các yếu tố được coi 
là có ảnh hưởng ít nhất là thái độ đối với tiếng 
Việt và giới tính. 
Nguyễn Thị Thu Hương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(04): 21 - 26 
 Email: jst@tnu.edu.vn 26 
4. Kết luận 
Giảng viên, những người đóng vai trò quan 
trọng trong sự thành công của người học 
trong nghiên cứu này dường như hài lòng với 
nghề nghiệp và điều kiện làm việc cũng như 
giảng dạy của mình; Các giảng viên luôn coi 
giảng dạy là nghề “được xã hội tôn vinh”. 
Hơn nữa, giảng viên luôn sẵn sàng nỗ lực 
thêm khi cần thiết và mối quan hệ của giảng 
viên với sinh viên đang theo chiều hướng tốt 
dần lên. Các giảng viên trong nghiên cứu này 
cũng đã thể hiện tính cá nhân hóa và chuyên 
nghiệp hóa trong giảng dạy. Các giảng viên 
đều thể hiện được cảm hứng giảng dạy. Điều 
này phát sinh từ sự đam mê trong giảng dạy; 
nó duy trì sự tươi mới và tự giác tự phát trong 
lớp học; và cảm hứng cũng thu hút và giúp 
giảng viên quan tâm đến sinh viên hơn. Giảng 
viên lấy cảm hứng từ các hoạt động đơn giản 
và lắng nghe các vấn đề của sinh viên và giúp 
các em tìm giải pháp vượt qua. Đây là điều 
đáng mừng vì Đại học Thái Nguyên đang 
từng bước xây dựng đội ngũ giảng viên có 
chất lượng phục vụ đào tạo nguồn nhân lực có 
chất lượng cao, đáp ứng xu thế hội nhập phát 
triển của đất nước. 
Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu cũng chỉ ra 
một số vấn đề để nâng cao chất lượng dạy và 
học tiếng Anh. Vấn đề đầu tiên là thiết bị 
giảng dạy thiếu hiệu quả, chưa đầu tư đáp ứng 
với nhu cầu giảng dạy và học tập. Chất lượng 
thiết bị các phòng lab chưa tốt, chưa có phòng 
học dịch. Cơ sở vật chất chưa thật sự phù 
hợp. Đa số các phòng học tiếng Anh là phòng 
học thụ động, khi sinh viên phải học tại 
những phòng qúa rộng, nhiều bàn ghế... 
không phù hợp cho những buổi học kỹ năng 
cần sự tập trung cao. Tại một số trường, chưa 
bố trí hoặc thiết kế đường truyền Internet hay 
Wifi để phục vụ việc học tập hoặc có nhưng 
đường truyền lại quá chậm, thậm chí không 
sử dụng được. Bên cạnh đó, giáo trình, đề 
cương dạy các kỹ năng cũng chưa thực sự phù 
hợp, chủ yếu dạy theo giáo trình có sẵn của 
nước ngoài, chưa có các giáo trình, bài giảng 
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế học 
tập của sinh viên miền núi và nâng cao hứng 
thú học tập cho sinh viên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. M. Faitar, “Socioeconomic status, ethnicity 
and the context of achievement in minority 
education,” pp. 3-5, 2010. [Online]. 
Available: https://global journals.org/.../1-The 
-Impact-of-EnglishLanguage.pdf. [Accessed 
November 23, 2018]. 
[2]. V. V. Hoang, “Factors affecting the quality of 
English education at Vietnam National 
University, Hanoi (In Vietnamese),” VNU 
Scientific Journal - Foreign Language, vol. 
24, pp. 22-37, 2008. 
[3]. J. Kormos, and K. Csizér, “Age-Related 
Differences in the Motivation of Learning 
Enlgish as a Foreign Language: Attitudes, 
Selves, and Motivated Learning Behaviour,” 
Language Learning, vol. 58, no. 2, pp. 327-
355, 2008. 
[4]. I. Mushtaq, and N. S. Khan, “Factors 
Affecting Student‟s Academic Performance,” 
Global Journal of Management and Business 
Research, vol. 12, no. 1, p. 342, 2012. 
[5]. V. L. Nguyen, and H. Q. Pham, “The quality of 
teachers training at University of Education, 
Thai Nguyen university – from the practice of 
using human resources (In Vietnamese),” 
Journal of Education, vol. 10, p. 47, 2006. 
[6]. T. V. Nguyen, “Foreign language teaching 
and learning at the University of Engineering 
and Technology, Vietnam National 
University, Hanoi (In Vietnamese),” VNU 
Scientific Journal - Foreign Language, vol. 
23, pp. 138-142, 2007. 
[7]. M. Ramlee, B. Seri, R. Saemah, M. H. Yusof 
and A. B. Rahayu, “Environmental Factors 
and Students‟ Learning Approaches: A 
Survey on Malaysian Polytechnics Students,” 
Journal of Education and Learning, vol. 8, 
no. 4, pp. 387-398, 2014. 
[8]. Thai Nguyen University, “Strategic plan for 
the development of Thai Nguyen University 
in the period of 2016-2020 and vision to 
2030. (4th draft),” 2019. [Online]. Available: 
phat-trien-dai-hoc-thai-nguyen-giai-doan-2016-
2020-va-tam-nhin-den-nam-2030-du-thao-lan-4-
dn47.html. [Accessed September 18, 2019]. 

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_chat_luong_hoc_tieng_anh_nhin_tu_go.pdf