Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa
Loại hình địa danh lịch sử - văn hóa là loại tên gọi các đối tượng di tích lịch sử -
văn hóa. Ở mỗi vùng miền, các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa có sự khác nhau. Địa
danh lịch sử - văn hóa vùng miền núi Thanh Hóa tương đối đa dạng, phản ánh đặc điểm
văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, cảnh quan của các địa phương. Đây
chính là nội dung nghiên cứu của bài viết này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa
Xuân (Quan Hóa), đền Lãm ở Tân Thành (Thường Xuân) thờ tướng sĩ trong khởi nghĩa Lam Sơn, Về gia đình của thủ lĩnh Lê Lợi có cả đền thờ Lê Lợi, bố và anh trai Lê Lợi. Đền thờ Lê Khoáng (Kiên Thọ, Ngọc Lặc) thờ bố Lê Lợi, đền Lê Trừ (Minh Sơn, Ngọc Lặc) thờ anh trai Lê Lợi, người có công khai khẩn đất hoang, lo việc hậu phương giúp em đánh giặc, được tôn là Thành hoàng làng [1; tr.107]. Riêng thủ lĩnh Lê Lợi có 2 đền thờ: đền Lê Lợi ở Kiên Thọ (Ngọc Lặc) và đền Lê Lợi ở thôn Năng Cát, Trí Nang (Lang Chánh). Các vị tướng đời Trần: như Trần Khát Chân ở đền Trần khát Chân (Thành Hưng, Thạch Thành), nghè Phúc Lộc (Thành Hưng, Thạch Thành) thờ Lê Hồng Phúc, Những người có công trong việc dẹp loạn giữ gìn biên giới, trấn ải phía Tây Thanh Hóa: Đền thờ Tư Mã Hai Đào ở Sơn Thủy (Quan Sơn) và đền Tư Mã ở Tén Tằn (Mường Lát) thờ tướng quân Tư Mã Hai Đào. Hai Đào (thế kỷ XVIII) là người ở bản Đào, Mường Khô (nay là Điền Quang, Bá Thước), có công dẹp loạn thổ phỉ từ Lào tràn sang được chúa Trịnh ban tước Hoa Quận công và phong chức Tư Mã trấn ải biên cương [3; tr.293]. Đền 127 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 thờ Hà Công Thái ở Điền Trung (Bá Thước) thờ Quận công Hà Công Thái. Hà Công Thái là ông nội của Hà Văn Mao, là một tri châu có uy tín, có công chiêu mộ quân sĩ, xây dựng các đạo quân giúp Nguyễn Ánh. Các thủ lĩnh và nghĩa sĩ trong phong trào Cần Vương: Trong phong trào chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, vùng miền núi Thanh Hoá có nhiều anh hùng đã tham gia phong trào này và lập nên nhiều chiến công. Để nhớ ơn những người anh hùng, nhân dân đã lập các đền thờ. Đó là đền thờ Cầm Bá Thước (Xuân Lẹ, Thọ Xuân), đền thờ Hà Văn Mao (Cẩm Thạch, Cẩm Thủy), đền thờ Cầm Bá Hiển - ông nội Cầm Bá Thước (Vạn Xuân, Thọ Xuân), đền Cửa Đặt thờ Cầm Bá Thước (Vạn Xuân, Thọ Xuân), đền thờ Hà Văn Nho (Văn Nho, Bá Thước). Các anh hùng, liệt sĩ, thanh niên xung phong trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ: đền Luống Đồng (Hóa Quỳ, Như Thanh) thờ 2 cô gái thanh nhiên xung phong. Đền Chín Gian ở Thanh Quân (Như Xuân) ngoài thờ Trời còn thờ các anh hùng liệt sĩ của các xã vùng 6 Thanh của huyện Như Xuân. Ngoài ra, trong các địa danh lịch sử - văn hóa vùng miền núi Thanh Hóa còn đền thờ Trịnh Ra, một viên quan Khố Sứ có công từ thời Cao Biền, đền thờ Quản Gia Đô Bác (Phúc Do, Cẩm Thủy). Một số địa danh có thờ Chàng Cả, Chàng Hai và Chàng Ba như nghè Phe Trên (Giáp Chảy) ở Cẩm Vân (Cẩm Thủy) chưa rõ danh tính cụ thể Các vị thần có công với địa phương, làng bản, địa phương, dân tộc: Thờ Thành hoàng làng: Cũng như miền đồng bằng sông Mã, ở vùng miền núi Thanh Hóa, Thành hoàng làng thường được thờ chủ yếu là ở đình. Các vị thần Thành hoàng làng thường là những người đầu tiên khai ấp lập làng. Đó có thể là các ông tổ của các dòng họ được thờ trong các đình: đình Làng Hồ (Thọ Thanh, Thọ Xuân) thờ Lê Trực Đại vương. Đình Thi (Yên Lễ, Như Xuân) thờ tướng công Lê Phúc Thành, người lập công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cũng là người đầu tiên lập ra làng Sẹt (làng Trung Thành), đình Bến Ván (Thượng Ninh, Như Xuân), đình làng Thanh Bình (Thanh Xuân, Như Xuân), đều thờ những người đã có công lập làng. Có khi là thiên thần như đình Trung làng Mổ (Thị trấn Cẩm Thủy) thờ Thần Long Vương, đình Hạ làng Mổ (Thị trấn Cẩm Thủy) thờ thần Ngũ Lôi. Đình làng Vân Đội (Đình Mường Đòn, Thành Mỹ, Thạch Thành) được xây dựng từ thời Hậu Lê là nơi thờ Bạch Mã Linh Lang (tên thật là Vũ Duy Dương) và Thổ nương Công chúa (tức bà Vũ Thị Cao, là em gái của ông Vũ Duy Dương) là hai vị Thành hoàng của Mường Đòn. Đền Ông - Động Bà (Thị trấn Quan Hóa) thờ đôi vợ chồng theo truyền thuyết của người Thái ở vùng này. Các đình Rú Mùn, Giếng Vành, Má Pho của dân tộc Thổ ở Cát Tân (Như Xuân) thờ Bác Cả, Bác Hai và Bác Ba là 3 anh em: anh cả ở núi Bù Mùn, anh hai ở núi Tầm và anh ba ở núi khu bãi Trành (Như Xuân). Đặc biệt, trong các địa danh miếu, tên các nhân vật được thờ ở vùng này đều rất rõ ràng. Đa số họ là những người đầu tiên đến khai ấp lập làng khi nơi đây còn là một vùng núi hoang sơ, rừng thiêng nước độc. Những người đầu tiên này đã xác định vị trí, phát cây, cắm đất, quy tụ mọi người lập nên những chòm dân cư đầu tiên của vùng đất. Miếu thờ thôn Đồng Phống (Thanh Xuân, Như Xuân) thờ hai ông Lương Cả Đắm và Lương Cả Thiết. Miếu Ná Le (Thanh Sơn, Như Xuân) thờ ông Vi Văn Ứt. Miếu Sơn, Làng Cọc (Thanh Lâm, Như Xuân) thờ ông Pù Phăn. Miếu thờ chúa chòm Phấm (Cẩm Bình, Cẩm 128 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 Thủy) thờ ông Phạm Đình Cảnh Mặc dù hiện tại nhiều miếu đã là phế tích nhưng công ơn của những người đầu tiên khai ấp, lập làng luôn được ghi nhớ trong ký ức của đồng bào nơi đây. Thờ các nữ thần (thờ Mẫu): Bên cạnh thờ các nhân vật lịch sử, nhiều đình, đền, miếu, nghè ở vùng miền núi phía tây có thờ các nữ thần. Riêng Bạch Y công chúa, nữ thần đã cứu Lê Lợi thoát nạn trong khởi nghĩa Lam Sơn, có 3 đền thờ: đền thờ Bạch Y công chúa ở Thị trấn Thường Xuân và đền thờ Bạch Y công chúa ở Phú Nhuận (Như Thanh), đền Chiềng Vọng ở Cẩm Giang (Cẩm Thủy). Đền Cô Luồng (còn gọi là đền Cô Thị) ở Thị trấn Kim Tân (Thạch Thành) thờ vọng Bà Chúa Liễu, đền Bến Hang (Cẩm Liên, Cẩm Thủy) thờ bà Chúa Hích (vợ của Hồ Quý Ly) [1; tr.29], đền thờ Bà Chúa Trầm ở Phùng Giáo (Ngọc Lặc) thờ một nàng phi của Lê Lợi, người trước đây đã cùng mẹ mình nuôi giấu Lê Lợi trong thời kỳ kháng chiến chống quân Minh [7; tr.179-181]. Đền Nhà Bà làng Ấm (Cẩm Châu, Cẩm Thủy), đền Chúa Thượng (Vân Du, Thạch Thành), đền Tự Cường (Thành Minh, Thạch Thành) thờ Bà Chúa Thượng Ngàn. Đền Thánh Mẫu (Thạch Bình, Thạch Thành) thờ Nàng Nga - nhân vật được lưu truyền gắn với truyện thơ Nàng Nga - Hai Mối của người Mường. Đền Sồi (Thành Minh, Thạch Thành) thờ Thủy Tinh Công chúa tôn thần và Thượng ngàn Sơn Tinh Công chúa. Đền thờ Bà Vua Thôi (làng Chợ, Cẩm Bình, Cẩm Thủy). Thờ thủy thần: đền Khu Nang (Thành Minh, Thạch Thành), đền Dọc Dành (Ngọc Trạo, Thạch Thành), đền làng Đa Đụn (Thành Trực, Thạch Thành) thờ Thủy Tinh Ngọc Hoa Công Chúa. Thờ Cao Sơn: Đền Phố Sồi (Thành Minh, Thạch Thành), đền thờ Cao Sơn (Thạch Hưng, Thạch Thành), Thờ các Ông Tạo và Lang Mường cũng phổ biến: Đền thờ Ông Tạo Sanh (hay còn gọi tắt là đền Ông Tạo) tại làng Don, nay thuộc địa phận thôn Xuân Hợp xã Xuân Bình (Như Thanh), đền Quan Lang (Cát Tân, Như Thanh) Thờ hổ: Nghè Đức Ông (Cẩm Vân, Cẩm Thủy) thờ hổ - ông ba mươi. Thờ thần rắn: Thần rắn gắn với những thần tích về chàng Cụt của người Mường ở dọc hai bên bờ sông Mã. Thần rắn thường được thờ ở đền hoặc đình của các xã ở huyện Cẩm Thủy: Đền Ngọc (Cẩm Lương), đình Làng Vinh, đình Làng Xanh (Cẩm Bình, Cẩm Thủy). Nhóm tác giả “Đình làng xứ Thanh” cho rằng rắn ở đây chính là “con của thủy cung, được lệnh lên giúp vua chống giặc”, theo đó, thờ rắn là thờ thủy thần [8; tr.59]. Thờ thần núi, thần rừng: đình Trung làng Cót (Cẩm Sơn, Cẩm Thủy) thờ thần rừng. Nghè Quan Làng Ớm (Cẩm Yên, Cẩm Thủy) thờ thần rừng. Nghè Phe Đông (Cẩm Vân, Cẩm thủy) thờ thần núi Tản Viên. Thờ lúa: Đền Sao Vàng (Xuân Bình, Như Xuân) ở làng Đọn, nay thuộc địa phận thôn Mít thờ những hạt lúa vàng (Tư liệu điền dã). Thờ tổ của các dòng họ: Sớn Mướng (Làng Lự, Thanh Lâm, Như Xuân) thờ ông tổ họ Hổn Vi. Đình Làng Ăn (Cẩm Tú, Cẩm Thủy) thờ ông tổ họ Cao Thờ Trời (Ngọc Hoàng): Tến Cau Hoong hay đền Chín Gian (Thanh Quân, Như Xuân). Ở đây có cả những trường hợp chuyển lại giữa các loại hình: từ chùa chuyển thành đền: Đền Hang Chùa (Cẩm Bình) thờ Phật. Nghè Phủ làng Đồng Trâm (Cẩm Yên, Cẩm 129 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 Thủy) thờ Chúa Thượng Ngàn. Nghè Phủ (Câm Vân, Cẩm Thủy) thờ Phạm Thị Ngọc (hay còn gọi là Bà chúa Cua, Bà chúa Che), Ngoài các địa danh lịch sử - văn hóa tiếng Việt (Kinh), ở vùng miền núi Thanh Hóa còn có các địa danh gốc tiếng Thái, tiếng Mường và tiếng Thổ. Tuy nhiên, hiện tại các tên gọi này đa số đã bị Việt hóa do tác động áp lực hệ thống của tiếng Việt. Loại hình địa danh tiếng Thái được gọi là sớn/sấn hoặc tến tương đương với các địa danh đền/đền thờ của người Việt: sớn Huôi Pủ (Bãi Trành, Như Xuân), sớn Mướng hay đền Làng Lự (Thanh Lâm, Như Xuân)... Các địa danh gốc tiếng Thổ, tiếng Mường thường có ở Như Thanh, Như Xuân: đình Nắc Vành - Má Pho, đình Mùn Thú (Cát Tân, Như Xuân), chùa Cò Chùa (Cát Tân, Như Xuân) Một số di tích văn hóa ghi dấu các phong tục của đồng bào các dân tộc vùng miền núi. Hàng loạt các quan tài cổ và đồ dùng của người Thái được tìm thấy trong các địa danh ở vùng núi cao: Hang Phi (Hồi Xuân, Quan Hóa), hang Trùng (Na mèo, Quan Sơn), hang Hòm (Trung Xuân, Quan Hóa), Núi Lai Li, Lai Láng huyền thoại là địa danh gắn với sử thi “Đẻ Đất, đẻ Nước” của đồng bào Mường ở xứ Thanh 2.3. Các loại hình địa danh lịch sử ở vùng miền núi Thanh Hóa Các loại hình điạ danh licḥ sử là những loại hình điạ danh gắn với từ ng giai đoaṇ licḥ sử , sự kiện lịch sử, nhân vâṭ licḥ sử . Những giai đoạn, sự kiện, nhân vật lịch sử này đã được ghi chép trong sử sách hoặc được nhân dân địa phương lưu truyền trong dân gian tức là được huyền thoại hóa. Theo tư liệu khảo sát, ở miền núi Thanh Hóa có các nhóm địa danh lịch sử: Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử và di tích lịch sử cách mạng. Trong đó, di chỉ khảo cổ là những nơi các nhà khảo cổ đã phát hiện ra các hiện vật gắn với các thời kỳ cổ đại của người Việt: Hang Con Moong (Thành Yên, Thạch Thành), hang Làng Tráng (Lâm Xa, Bá Thước) Mái Đá Điều (Hạ Trung, Bá Thước), Di tích lịch sử là các địa danh gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và các sự kiện lịch sử khác: di tích Hang Lòn (Giao An, Lang Chánh) là căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn thời kỳ 1418-1423 [1; tr.61]. Di tích Núi Hón Oi (Quang Hiến, Lang Chánh) là nơi xảy ra các trận tập kích của nghĩa quân Lam Sơn trong những năm 1419 - 1423. Hiện nay còn bàn ghế đá tương truyền Lê Lợi đã dùng để ngồi [1; tr.66]. Di tích Thung Voi (Đồng Lương, Lang Chánh) là nơi xảy ra các trận chiến của nghĩa quân Lam Sơn trong những năm 1419 - 1423. Di tích Hang Bàn Bù (Ngọc Khê, Ngọc Lặc) là nơi tập hợp nuôi dưỡng nghĩa quân Lam Sơn. Di tích Thành Eo Gắm (Cẩm Châu, Cẩm Thủy) là thành đất chống giặc có từ thời Gia Long (1802) Di tích lịch sử cách mạng là các địa danh gắn với cuộc kháng chiến, các sự kiện lịch sử của các địa phương từ khi có Đảng lãnh đạo. Từ khi có Đảng, trải qua hai cuộc kháng chiến của dân tộc, vùng miền núi Thanh Hóa là địa bàn đã diễn ra nhiều sự việc, sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự góp mặt của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa trong sự nghiệp chung của dân tộc. Mỗi sự kiện qua đi còn để lại dấu tích trong các địa danh. Di tích gắn với thành lập các tổ chức Đảng và các tổ chức Cách mạng: Lèn Ớt ATK ở thôn Quảng Hợp (Hóa Quỳ, Như Xuân) là nơi tổ chức Hội nghị chuẩn bị thành lập Đảng 130 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 bộ vào 25 tháng 8 năm 1949. Gò Ái Thôn (Yên Lễ, Như Xuân) nơi đã diễn ra Đại hội Đảng bộ huyện Như Xuân lần thứ nhất ngày 15 tháng 3 năm 1950. Di tích gắn với kháng chiến chống thực dân Pháp: Hang Chùa, hang Cộng Sản, hang Ngân Hàng (Lộc Thịnh, Ngọc Lặc) là nơi ở của các chiến sĩ cộng sản và là nơi đặt ngân hàng của chính phủ kháng chiến thời chống Pháp. Di tích Hang Chùa (Cẩm Châu, Cẩm Thủy) trong kháng chiến chống Pháp là xưởng quân giới Lê Hồng Phong [1; tr.27]. Di tích Hang Lò Cao kháng chiến (Hải Vân, Như Thanh) được xây dựng chủ yếu trong các hang, hoạt động từ tháng 6 năm 1950 đến tháng 12 năm 1954, sản xuất được hơn 500 tấn gang, chế tạo ra rất nhiều vũ khí đạn dược để phục vụ kháng chiến. Di tích gắn với kháng chiến chống đế quốc Mỹ: Di tích lịch sử cách mạng Núi Pha U Hò (Phú Lệ, Quan Hóa) là nơi ngày 14 tháng 5 năm 1967 dân quân xã Phú Lệ lập trận địa trên đỉnh núi Pha Ú Hò, bắn cháy 1 máy bay F105 và bắt sống giặc lái Mỹ. Địa điểm Cầu Phà Lò (Trung Thượng, Quan Hóa) là nơi bị giặc đánh phá ác liệt nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông nối đôi bờ sông Lò sang nước bạn Lào. Ngày 10/2/1966, lực lượng dân quân các xã Trung Hạ và Tam Lư đã bắn cháy một máy bay F105 của Mỹ bằng súng bộ binh tại trận địa phòng không bảo vệ cầu Pha Lò [3] 3. KẾT LUẬN Dù tồn tại với số lượng và tỉ lệ khác nhau nhưng các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa đã phần nào phản ánh quá trình lịch sử và những đặc điểm văn hóa cơ bản của các địa phương. Nhiều địa danh là những di tích lịch sử, văn hóa đã được khôi phục cùng với việc phục dựng các lễ hội nhưng cũng có nhiều địa danh chỉ còn là phế tích. Đặc biệt các địa danh là các di tích lịch sử - văn hoá của các dân tộc thiểu số chưa được khôi phục nhiều. Hiện nay, quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ cao, lãnh đạo các địa phương cần có những chủ trương chính sách cụ thể, hợp lý cho việc phục dựng các di tích và lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng miền núi Thanh Hóa để bảo lưu và phát huy những giá trị của các loại hình địa danh di tích lịch sử - văn hóa này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2001), Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nxb. Thanh Hóa. [2] Cách phân biệt Chùa, đình, đền, miếu, nghè, điện, phủ, quán, am (Nguồn https://phatgiao.org.vn) [3] Địa chí các huyện Bá Thước, Cẩm Thủy, Như Xuân, Lang Chánh, Thường Xuân, Quan Hóa, Quan Sơn. [4] Quốc hội (2001), Luật số 28/2001/QH10, Luật di sản văn hóa (Nguồn [5] Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, (Phạm Trọng Điền dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), tập 2, Nxb. Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế. [6] Khu di tích Lam Kinh, Các di tích vệ tinh 1, nguồn 131 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 [7] Phạm Tấn (2013), Di tích danh thắng miền tây Thanh Hóa, Nxb. Thanh Hoá, Thanh Hóa. [8] Lê Thị Thảo (2019), Đình làng xứ Thanh, Nxb. Thế giới, Hà Nội. [9] Vũ Thị Thắng (2014), Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của địa danh Thanh Hóa, luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. [10] Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học. THE TYPES OF HISTORIC-CULTURAL LANDMARKS IN MOUTAINOUS REGIONS IN THANH HOA PROVINCE Vu Thi Thang ABSTRACT Historical-cultural place names are the names of historical and cultural sites. Historical and cultural place names are different among regions. Historical - cultural places in Thanh Hoa mountainous regions are relatively diverse. They show the characteristics of culture, history, beliefs, customs, customs, nature, etc. of each region. This is the research content of the article. Keywords: Historical-cultural place names, Thanh Hóa mountainous region. * Ngày nộp bài: 2/11/2020; Ngày gửi phản biện: 6/11/2020; Ngày duyệt đăng: 15/12/2020 132
File đính kèm:
- cac_loai_hinh_dia_danh_lich_su_van_hoa_o_vung_mien_nui_thanh.pdf