Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa

Loại hình địa danh lịch sử - văn hóa là loại tên gọi các đối tượng di tích lịch sử -

văn hóa. Ở mỗi vùng miền, các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa có sự khác nhau. Địa

danh lịch sử - văn hóa vùng miền núi Thanh Hóa tương đối đa dạng, phản ánh đặc điểm

văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, cảnh quan của các địa phương. Đây

chính là nội dung nghiên cứu của bài viết này.

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 1

Trang 1

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 2

Trang 2

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 3

Trang 3

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 4

Trang 4

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 5

Trang 5

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 6

Trang 6

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 7

Trang 7

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 8

Trang 8

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 9

Trang 9

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 4480
Bạn đang xem tài liệu "Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa

Các loại hình địa danh lịch sử - văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa
Xuân (Quan Hóa), đền Lãm ở Tân Thành (Thường Xuân) 
thờ tướng sĩ trong khởi nghĩa Lam Sơn, Về gia đình của thủ lĩnh Lê Lợi có cả đền thờ 
Lê Lợi, bố và anh trai Lê Lợi. Đền thờ Lê Khoáng (Kiên Thọ, Ngọc Lặc) thờ bố Lê Lợi, 
đền Lê Trừ (Minh Sơn, Ngọc Lặc) thờ anh trai Lê Lợi, người có công khai khẩn đất hoang, 
lo việc hậu phương giúp em đánh giặc, được tôn là Thành hoàng làng [1; tr.107]. Riêng thủ 
lĩnh Lê Lợi có 2 đền thờ: đền Lê Lợi ở Kiên Thọ (Ngọc Lặc) và đền Lê Lợi ở thôn Năng 
Cát, Trí Nang (Lang Chánh). 
 Các vị tướng đời Trần: như Trần Khát Chân ở đền Trần khát Chân (Thành Hưng, 
Thạch Thành), nghè Phúc Lộc (Thành Hưng, Thạch Thành) thờ Lê Hồng Phúc, 
 Những người có công trong việc dẹp loạn giữ gìn biên giới, trấn ải phía Tây Thanh 
Hóa: Đền thờ Tư Mã Hai Đào ở Sơn Thủy (Quan Sơn) và đền Tư Mã ở Tén Tằn (Mường 
Lát) thờ tướng quân Tư Mã Hai Đào. Hai Đào (thế kỷ XVIII) là người ở bản Đào, Mường 
Khô (nay là Điền Quang, Bá Thước), có công dẹp loạn thổ phỉ từ Lào tràn sang được chúa 
Trịnh ban tước Hoa Quận công và phong chức Tư Mã trấn ải biên cương [3; tr.293]. Đền 
 127 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 
thờ Hà Công Thái ở Điền Trung (Bá Thước) thờ Quận công Hà Công Thái. Hà Công Thái 
là ông nội của Hà Văn Mao, là một tri châu có uy tín, có công chiêu mộ quân sĩ, xây dựng 
các đạo quân giúp Nguyễn Ánh. 
 Các thủ lĩnh và nghĩa sĩ trong phong trào Cần Vương: Trong phong trào chống thực 
dân Pháp cuối thế kỷ XIX, vùng miền núi Thanh Hoá có nhiều anh hùng đã tham gia 
phong trào này và lập nên nhiều chiến công. Để nhớ ơn những người anh hùng, nhân dân 
đã lập các đền thờ. Đó là đền thờ Cầm Bá Thước (Xuân Lẹ, Thọ Xuân), đền thờ Hà Văn 
Mao (Cẩm Thạch, Cẩm Thủy), đền thờ Cầm Bá Hiển - ông nội Cầm Bá Thước (Vạn Xuân, 
Thọ Xuân), đền Cửa Đặt thờ Cầm Bá Thước (Vạn Xuân, Thọ Xuân), đền thờ Hà Văn Nho 
(Văn Nho, Bá Thước). 
 Các anh hùng, liệt sĩ, thanh niên xung phong trong hai cuộc kháng chiến chống 
Pháp và đế quốc Mỹ: đền Luống Đồng (Hóa Quỳ, Như Thanh) thờ 2 cô gái thanh nhiên 
xung phong. Đền Chín Gian ở Thanh Quân (Như Xuân) ngoài thờ Trời còn thờ các anh 
hùng liệt sĩ của các xã vùng 6 Thanh của huyện Như Xuân. 
 Ngoài ra, trong các địa danh lịch sử - văn hóa vùng miền núi Thanh Hóa còn đền thờ 
Trịnh Ra, một viên quan Khố Sứ có công từ thời Cao Biền, đền thờ Quản Gia Đô Bác 
(Phúc Do, Cẩm Thủy). Một số địa danh có thờ Chàng Cả, Chàng Hai và Chàng Ba như 
nghè Phe Trên (Giáp Chảy) ở Cẩm Vân (Cẩm Thủy) chưa rõ danh tính cụ thể 
 Các vị thần có công với địa phương, làng bản, địa phương, dân tộc: Thờ Thành 
hoàng làng: Cũng như miền đồng bằng sông Mã, ở vùng miền núi Thanh Hóa, Thành 
hoàng làng thường được thờ chủ yếu là ở đình. Các vị thần Thành hoàng làng thường là 
những người đầu tiên khai ấp lập làng. Đó có thể là các ông tổ của các dòng họ được thờ 
trong các đình: đình Làng Hồ (Thọ Thanh, Thọ Xuân) thờ Lê Trực Đại vương. Đình Thi 
(Yên Lễ, Như Xuân) thờ tướng công Lê Phúc Thành, người lập công lớn trong cuộc khởi 
nghĩa Lam Sơn cũng là người đầu tiên lập ra làng Sẹt (làng Trung Thành), đình Bến Ván 
(Thượng Ninh, Như Xuân), đình làng Thanh Bình (Thanh Xuân, Như Xuân), đều thờ 
những người đã có công lập làng. Có khi là thiên thần như đình Trung làng Mổ (Thị trấn 
Cẩm Thủy) thờ Thần Long Vương, đình Hạ làng Mổ (Thị trấn Cẩm Thủy) thờ thần Ngũ 
Lôi. Đình làng Vân Đội (Đình Mường Đòn, Thành Mỹ, Thạch Thành) được xây dựng từ 
thời Hậu Lê là nơi thờ Bạch Mã Linh Lang (tên thật là Vũ Duy Dương) và Thổ nương 
Công chúa (tức bà Vũ Thị Cao, là em gái của ông Vũ Duy Dương) là hai vị Thành hoàng 
của Mường Đòn. Đền Ông - Động Bà (Thị trấn Quan Hóa) thờ đôi vợ chồng theo truyền 
thuyết của người Thái ở vùng này. Các đình Rú Mùn, Giếng Vành, Má Pho của dân tộc 
Thổ ở Cát Tân (Như Xuân) thờ Bác Cả, Bác Hai và Bác Ba là 3 anh em: anh cả ở núi Bù 
Mùn, anh hai ở núi Tầm và anh ba ở núi khu bãi Trành (Như Xuân). 
 Đặc biệt, trong các địa danh miếu, tên các nhân vật được thờ ở vùng này đều rất rõ 
ràng. Đa số họ là những người đầu tiên đến khai ấp lập làng khi nơi đây còn là một vùng 
núi hoang sơ, rừng thiêng nước độc. Những người đầu tiên này đã xác định vị trí, phát 
cây, cắm đất, quy tụ mọi người lập nên những chòm dân cư đầu tiên của vùng đất. Miếu 
thờ thôn Đồng Phống (Thanh Xuân, Như Xuân) thờ hai ông Lương Cả Đắm và Lương 
Cả Thiết. Miếu Ná Le (Thanh Sơn, Như Xuân) thờ ông Vi Văn Ứt. Miếu Sơn, Làng Cọc 
(Thanh Lâm, Như Xuân) thờ ông Pù Phăn. Miếu thờ chúa chòm Phấm (Cẩm Bình, Cẩm 
128 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 
Thủy) thờ ông Phạm Đình Cảnh Mặc dù hiện tại nhiều miếu đã là phế tích nhưng công 
ơn của những người đầu tiên khai ấp, lập làng luôn được ghi nhớ trong ký ức của đồng 
bào nơi đây. 
 Thờ các nữ thần (thờ Mẫu): Bên cạnh thờ các nhân vật lịch sử, nhiều đình, đền, miếu, 
nghè ở vùng miền núi phía tây có thờ các nữ thần. Riêng Bạch Y công chúa, nữ thần đã cứu 
Lê Lợi thoát nạn trong khởi nghĩa Lam Sơn, có 3 đền thờ: đền thờ Bạch Y công chúa ở Thị 
trấn Thường Xuân và đền thờ Bạch Y công chúa ở Phú Nhuận (Như Thanh), đền Chiềng 
Vọng ở Cẩm Giang (Cẩm Thủy). Đền Cô Luồng (còn gọi là đền Cô Thị) ở Thị trấn Kim Tân 
(Thạch Thành) thờ vọng Bà Chúa Liễu, đền Bến Hang (Cẩm Liên, Cẩm Thủy) thờ bà Chúa 
Hích (vợ của Hồ Quý Ly) [1; tr.29], đền thờ Bà Chúa Trầm ở Phùng Giáo (Ngọc Lặc) thờ 
một nàng phi của Lê Lợi, người trước đây đã cùng mẹ mình nuôi giấu Lê Lợi trong thời kỳ 
kháng chiến chống quân Minh [7; tr.179-181]. Đền Nhà Bà làng Ấm (Cẩm Châu, Cẩm Thủy), 
đền Chúa Thượng (Vân Du, Thạch Thành), đền Tự Cường (Thành Minh, Thạch Thành) 
thờ Bà Chúa Thượng Ngàn. Đền Thánh Mẫu (Thạch Bình, Thạch Thành) thờ Nàng Nga - 
nhân vật được lưu truyền gắn với truyện thơ Nàng Nga - Hai Mối của người Mường. Đền Sồi 
(Thành Minh, Thạch Thành) thờ Thủy Tinh Công chúa tôn thần và Thượng ngàn Sơn Tinh 
Công chúa. Đền thờ Bà Vua Thôi (làng Chợ, Cẩm Bình, Cẩm Thủy). 
 Thờ thủy thần: đền Khu Nang (Thành Minh, Thạch Thành), đền Dọc Dành (Ngọc 
Trạo, Thạch Thành), đền làng Đa Đụn (Thành Trực, Thạch Thành) thờ Thủy Tinh Ngọc 
Hoa Công Chúa. 
 Thờ Cao Sơn: Đền Phố Sồi (Thành Minh, Thạch Thành), đền thờ Cao Sơn (Thạch 
Hưng, Thạch Thành), 
 Thờ các Ông Tạo và Lang Mường cũng phổ biến: Đền thờ Ông Tạo Sanh (hay còn 
gọi tắt là đền Ông Tạo) tại làng Don, nay thuộc địa phận thôn Xuân Hợp xã Xuân Bình 
(Như Thanh), đền Quan Lang (Cát Tân, Như Thanh) 
 Thờ hổ: Nghè Đức Ông (Cẩm Vân, Cẩm Thủy) thờ hổ - ông ba mươi. 
 Thờ thần rắn: Thần rắn gắn với những thần tích về chàng Cụt của người Mường ở 
dọc hai bên bờ sông Mã. Thần rắn thường được thờ ở đền hoặc đình của các xã ở huyện 
Cẩm Thủy: Đền Ngọc (Cẩm Lương), đình Làng Vinh, đình Làng Xanh (Cẩm Bình, Cẩm 
Thủy). Nhóm tác giả “Đình làng xứ Thanh” cho rằng rắn ở đây chính là “con của thủy 
cung, được lệnh lên giúp vua chống giặc”, theo đó, thờ rắn là thờ thủy thần [8; tr.59]. 
 Thờ thần núi, thần rừng: đình Trung làng Cót (Cẩm Sơn, Cẩm Thủy) thờ thần rừng. 
Nghè Quan Làng Ớm (Cẩm Yên, Cẩm Thủy) thờ thần rừng. Nghè Phe Đông (Cẩm Vân, 
Cẩm thủy) thờ thần núi Tản Viên. 
 Thờ lúa: Đền Sao Vàng (Xuân Bình, Như Xuân) ở làng Đọn, nay thuộc địa phận 
thôn Mít thờ những hạt lúa vàng (Tư liệu điền dã). 
 Thờ tổ của các dòng họ: Sớn Mướng (Làng Lự, Thanh Lâm, Như Xuân) thờ ông tổ 
họ Hổn Vi. Đình Làng Ăn (Cẩm Tú, Cẩm Thủy) thờ ông tổ họ Cao 
 Thờ Trời (Ngọc Hoàng): Tến Cau Hoong hay đền Chín Gian (Thanh Quân, Như Xuân). 
 Ở đây có cả những trường hợp chuyển lại giữa các loại hình: từ chùa chuyển thành 
đền: Đền Hang Chùa (Cẩm Bình) thờ Phật. Nghè Phủ làng Đồng Trâm (Cẩm Yên, Cẩm 
 129 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 
Thủy) thờ Chúa Thượng Ngàn. Nghè Phủ (Câm Vân, Cẩm Thủy) thờ Phạm Thị Ngọc (hay 
còn gọi là Bà chúa Cua, Bà chúa Che), 
 Ngoài các địa danh lịch sử - văn hóa tiếng Việt (Kinh), ở vùng miền núi Thanh Hóa 
còn có các địa danh gốc tiếng Thái, tiếng Mường và tiếng Thổ. Tuy nhiên, hiện tại các tên 
gọi này đa số đã bị Việt hóa do tác động áp lực hệ thống của tiếng Việt. Loại hình địa danh 
tiếng Thái được gọi là sớn/sấn hoặc tến tương đương với các địa danh đền/đền thờ của 
người Việt: sớn Huôi Pủ (Bãi Trành, Như Xuân), sớn Mướng hay đền Làng Lự (Thanh 
Lâm, Như Xuân)... Các địa danh gốc tiếng Thổ, tiếng Mường thường có ở Như Thanh, 
Như Xuân: đình Nắc Vành - Má Pho, đình Mùn Thú (Cát Tân, Như Xuân), chùa Cò Chùa 
(Cát Tân, Như Xuân) Một số di tích văn hóa ghi dấu các phong tục của đồng bào các 
dân tộc vùng miền núi. Hàng loạt các quan tài cổ và đồ dùng của người Thái được tìm thấy 
trong các địa danh ở vùng núi cao: Hang Phi (Hồi Xuân, Quan Hóa), hang Trùng (Na mèo, 
Quan Sơn), hang Hòm (Trung Xuân, Quan Hóa), Núi Lai Li, Lai Láng huyền thoại là 
địa danh gắn với sử thi “Đẻ Đất, đẻ Nước” của đồng bào Mường ở xứ Thanh 
 2.3. Các loại hình địa danh lịch sử ở vùng miền núi Thanh Hóa 
 Các loại hình điạ danh licḥ sử là những loại hình điạ danh gắn với từ ng giai đoaṇ 
licḥ sử , sự kiện lịch sử, nhân vâṭ licḥ sử . Những giai đoạn, sự kiện, nhân vật lịch sử này đã 
được ghi chép trong sử sách hoặc được nhân dân địa phương lưu truyền trong dân gian tức 
là được huyền thoại hóa. 
 Theo tư liệu khảo sát, ở miền núi Thanh Hóa có các nhóm địa danh lịch sử: Di chỉ 
khảo cổ, di tích lịch sử và di tích lịch sử cách mạng. Trong đó, di chỉ khảo cổ là những nơi 
các nhà khảo cổ đã phát hiện ra các hiện vật gắn với các thời kỳ cổ đại của người Việt: 
Hang Con Moong (Thành Yên, Thạch Thành), hang Làng Tráng (Lâm Xa, Bá Thước) Mái 
Đá Điều (Hạ Trung, Bá Thước), 
 Di tích lịch sử là các địa danh gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và các sự kiện lịch 
sử khác: di tích Hang Lòn (Giao An, Lang Chánh) là căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn thời 
kỳ 1418-1423 [1; tr.61]. Di tích Núi Hón Oi (Quang Hiến, Lang Chánh) là nơi xảy ra các 
trận tập kích của nghĩa quân Lam Sơn trong những năm 1419 - 1423. Hiện nay còn bàn ghế 
đá tương truyền Lê Lợi đã dùng để ngồi [1; tr.66]. Di tích Thung Voi (Đồng Lương, Lang 
Chánh) là nơi xảy ra các trận chiến của nghĩa quân Lam Sơn trong những năm 1419 - 1423. 
Di tích Hang Bàn Bù (Ngọc Khê, Ngọc Lặc) là nơi tập hợp nuôi dưỡng nghĩa quân Lam 
Sơn. Di tích Thành Eo Gắm (Cẩm Châu, Cẩm Thủy) là thành đất chống giặc có từ thời 
Gia Long (1802) 
 Di tích lịch sử cách mạng là các địa danh gắn với cuộc kháng chiến, các sự kiện lịch 
sử của các địa phương từ khi có Đảng lãnh đạo. Từ khi có Đảng, trải qua hai cuộc kháng 
chiến của dân tộc, vùng miền núi Thanh Hóa là địa bàn đã diễn ra nhiều sự việc, sự kiện lịch 
sử quan trọng, đánh dấu sự góp mặt của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa trong 
sự nghiệp chung của dân tộc. Mỗi sự kiện qua đi còn để lại dấu tích trong các địa danh. 
 Di tích gắn với thành lập các tổ chức Đảng và các tổ chức Cách mạng: Lèn Ớt ATK 
ở thôn Quảng Hợp (Hóa Quỳ, Như Xuân) là nơi tổ chức Hội nghị chuẩn bị thành lập Đảng 
130 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 
bộ vào 25 tháng 8 năm 1949. Gò Ái Thôn (Yên Lễ, Như Xuân) nơi đã diễn ra Đại hội 
Đảng bộ huyện Như Xuân lần thứ nhất ngày 15 tháng 3 năm 1950. 
 Di tích gắn với kháng chiến chống thực dân Pháp: Hang Chùa, hang Cộng Sản, hang 
Ngân Hàng (Lộc Thịnh, Ngọc Lặc) là nơi ở của các chiến sĩ cộng sản và là nơi đặt ngân 
hàng của chính phủ kháng chiến thời chống Pháp. Di tích Hang Chùa (Cẩm Châu, Cẩm 
Thủy) trong kháng chiến chống Pháp là xưởng quân giới Lê Hồng Phong [1; tr.27]. Di tích 
Hang Lò Cao kháng chiến (Hải Vân, Như Thanh) được xây dựng chủ yếu trong các hang, 
hoạt động từ tháng 6 năm 1950 đến tháng 12 năm 1954, sản xuất được hơn 500 tấn gang, 
chế tạo ra rất nhiều vũ khí đạn dược để phục vụ kháng chiến. 
 Di tích gắn với kháng chiến chống đế quốc Mỹ: Di tích lịch sử cách mạng Núi Pha U 
Hò (Phú Lệ, Quan Hóa) là nơi ngày 14 tháng 5 năm 1967 dân quân xã Phú Lệ lập trận địa 
trên đỉnh núi Pha Ú Hò, bắn cháy 1 máy bay F105 và bắt sống giặc lái Mỹ. Địa điểm Cầu 
Phà Lò (Trung Thượng, Quan Hóa) là nơi bị giặc đánh phá ác liệt nhằm cắt đứt huyết 
mạch giao thông nối đôi bờ sông Lò sang nước bạn Lào. Ngày 10/2/1966, lực lượng dân 
quân các xã Trung Hạ và Tam Lư đã bắn cháy một máy bay F105 của Mỹ bằng súng bộ 
binh tại trận địa phòng không bảo vệ cầu Pha Lò [3] 
 3. KẾT LUẬN 
 Dù tồn tại với số lượng và tỉ lệ khác nhau nhưng các loại hình địa danh lịch sử - 
văn hóa ở vùng miền núi Thanh Hóa đã phần nào phản ánh quá trình lịch sử và những 
đặc điểm văn hóa cơ bản của các địa phương. Nhiều địa danh là những di tích lịch sử, 
văn hóa đã được khôi phục cùng với việc phục dựng các lễ hội nhưng cũng có nhiều địa 
danh chỉ còn là phế tích. Đặc biệt các địa danh là các di tích lịch sử - văn hoá của các 
dân tộc thiểu số chưa được khôi phục nhiều. Hiện nay, quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa 
đang diễn ra với tốc độ cao, lãnh đạo các địa phương cần có những chủ trương chính 
sách cụ thể, hợp lý cho việc phục dựng các di tích và lễ hội của đồng bào các dân tộc 
thiểu số ở vùng miền núi Thanh Hóa để bảo lưu và phát huy những giá trị của các loại 
hình địa danh di tích lịch sử - văn hóa này. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ban nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2001), Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, 
 Nxb. Thanh Hóa. 
[2] Cách phân biệt Chùa, đình, đền, miếu, nghè, điện, phủ, quán, am (Nguồn 
 https://phatgiao.org.vn) 
[3] Địa chí các huyện Bá Thước, Cẩm Thủy, Như Xuân, Lang Chánh, Thường Xuân, 
 Quan Hóa, Quan Sơn. 
[4] Quốc hội (2001), Luật số 28/2001/QH10, Luật di sản văn hóa (Nguồn 
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, (Phạm Trọng Điền 
 dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), tập 2, Nxb. Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế. 
[6] Khu di tích Lam Kinh, Các di tích vệ tinh 1, nguồn  
 131 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 52.2020 
[7] Phạm Tấn (2013), Di tích danh thắng miền tây Thanh Hóa, Nxb. Thanh Hoá, 
 Thanh Hóa. 
[8] Lê Thị Thảo (2019), Đình làng xứ Thanh, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 
[9] Vũ Thị Thắng (2014), Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của địa danh Thanh Hóa, luận 
 án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội 
 Việt Nam. 
[10] Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học. 
 THE TYPES OF HISTORIC-CULTURAL LANDMARKS IN 
 MOUTAINOUS REGIONS IN THANH HOA PROVINCE 
 Vu Thi Thang 
 ABSTRACT 
 Historical-cultural place names are the names of historical and cultural sites. 
Historical and cultural place names are different among regions. Historical - cultural places 
in Thanh Hoa mountainous regions are relatively diverse. They show the characteristics of 
culture, history, beliefs, customs, customs, nature, etc. of each region. This is the research 
content of the article. 
 Keywords: Historical-cultural place names, Thanh Hóa mountainous region. 
* Ngày nộp bài: 2/11/2020; Ngày gửi phản biện: 6/11/2020; Ngày duyệt đăng: 15/12/2020 
132 

File đính kèm:

  • pdfcac_loai_hinh_dia_danh_lich_su_van_hoa_o_vung_mien_nui_thanh.pdf