Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê

Bia ký thời Hậu Lê đến nay nằm rải rác trong các địa phương ở Thanh Hóa

với số lượng tương đối, tập trung chủ yếu ở vùng Lam Sơn và phổ biến là bia ký liên quan đến

các vua và hoàng tộc. Tuy nhiên, mặc dù các bia ghi chép về công nghiệp một số tướng lĩnh,

quan lại của thời kỳ này còn khá khiêm tốn nhưng tính giá trị về tư liệu lịch sử cũng như cuộc

đời của nhân vật giúp cho chúng ta có thêm những thông tin bổ ích để hình dung rõ hơn về

đời sống chính trị - xã hội gắn với một thời kỳ lịch sử; và tấm bia về Trịnh Quý Tốn mới vừa

được phát hiện thời gian gần đây cho phép ta sáng tỏ thêm về gia thế của một gia tộc công

thần khai quốc.

Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê trang 1

Trang 1

Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê trang 2

Trang 2

Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê trang 3

Trang 3

Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê trang 4

Trang 4

Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê trang 5

Trang 5

Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê trang 6

Trang 6

Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 1960
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê

Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê
 xa, xứng đáng đại diện cho phong 
cách chuẩn mực của văn bia Việt Nam thế kỷ XV - XVI3. Nếu như các bia ký thời Lý - Trần 
mà chúng ta biết đến hiện nay thường gắn với chùa, thì thời kỳ này ngoài các bia ở chùa, xuất 
hiện nhiều bia ký ở lăng mộ của vua và quý tộc, quan lại. Thế kỷ XV - XVI, ở Thanh Hóa nổi 
bật là các bia ký gắn với quần thể lăng mộ Lam Kinh, đặc trưng bố cục là mạch nối tiếp dòng 
bia truyền thống Việt Nam, tạo hình thường chia làm 3 phần, gồm: trán, thân và đế bia và ở 
mỗi bộ phận trên thường tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử- xã hội và quan niệm của mỗi thời 
mà có những đồ án trang trí khác nhau thể hiện các quan điểm tư tưởng, nhân sinh quan4. 
Sách Tuyển tập Văn bia Thanh Hóa, tập 2, xuất bản năm 2013 đã đề cập toàn diện 48 đơn vị 
văn bia thời Lê Sơ, đây là những thác bản vô cùng quý giá còn lại trong hệ thống bia ký thời 
kỳ Lê Sơ. Rất tiếc là văn bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn có niên đại Cảnh Thống 
1502 được đề cập trong bài viết này là một văn bia mới vừa được phát hiện cho nên sách chưa 
có điều kiện để cập nhật. Mong rằng, trong một tương lai không xa, bia Trịnh Quý Tốn và 
nhiều bia khác có niên đại Lê Sơ được phát hiện trong dân gian sẽ được bổ sung, khảo cứu và 
hiệu đính để độc giả có được cái nhìn phong phú, đa dạng hơn về nhân vật cũng như nội dung 
và nghệ thuật tạo tác các bia ký thuộc thời kỳ này. 
 2. Nội dung cơ bản về văn bia Trịnh Quý Tốn vừa đƣợc phát hiện 
 2.1. Quá trình phát hiện 
 Đầu năm 2020, một gia đình nông dân ở xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, trong lúc san ủi 
đất để làm vườn, đã phát hiện 1 hộp đá gồm 2 phiến được gắn liền với nhau ở độ sâu khoảng 
1m. Kích thước: dài 0,8m, rộng 0,5m, dày 0,15m. Gỡ ra thì mới biết đây là hộp bia mộ vốn 
được chôn sâu dưới lòng đất chứ không để lộ thiên như các tấm bia mộ thường thấy. Loại bia 
này không nhiều, niên đại thời Lê Sơ, ở Thanh Hóa có thể chỉ đếm trên đầu ngón tay. 
 Vì hai phiến đá được gắn với nhau bằng một loại chất kết dính đặc biệt nên nước không 
vào được. Viền xung quanh nắp bia khoảng 3cm lồi lên, viền xung quanh mặt bia cũng 
khoảng 3cm lõm xuống để khi ghép lại, thành 1 khối không thể xê dịch. Vì vậy, chữ Hán 
trong hai mặt của hai phiến đá (tức nắp bia và mặt bia) vẫn còn nguyên vẹn (xem ảnh). 
3 Lê Văn Tạo, Nguyễn Văn Hải (2008), Những bia ký điển hình ở Thanh Hóa, NXB Thanh Hóa, tr 15. 
4 Tuyển tập văn bia Thanh Hóa, tập 2, Văn bia Lê sơ, NXB Thanh Hóa, 2013, tr 795. 
 107 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 Nắp bia Mặt bia 
 Cả nắp và mặt bia không có hoa văn trang trí. Trên nắp bia khắc 19 chữ Hán với chiều 
cao mỗi chữ khoảng 4cm: “Đại Việt tặng Tả Đô đốc, Hoa Lâm hầu, Trụ quốc thụy Trang Mục 
Trịnh phủ quân mộ chí”. Mặt bia có 20 hàng dọc chữ Hán với khoảng trên dưới 500 chữ loại 
nhỏ. Ở đây, chỉ xin phiên âm ra tiếng Việt trong mặt bia. 
 2.2. Nội dung văn bia 
 * Phiên âm chữ Hán: 
 Đại Việt quốc. Tặng đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tả Đô đốc Hoa Lâm hầu, 
trụ quốc, thụy Trang Mục Trịnh công mộ chí minh tinh tự cổ giả chi chế phong bi sở dĩ kỉ 
huân phiệt thùy hậu thế dã. 
 Kim Đại Việt Hoa Lâm hầu tính Trịnh, húy Tốn, tự Kính Chỉ, Thanh Hoa, Vĩnh Ninh 
huyện nhân. Khảo húy Khả, tá Thái Tổ thành đại công tặng Thái úy Liệt quận công. Đích mẫu 
Giả thị, phong Liệt quận phu nhân, sinh mẫu Phạm Thị phong Hoa Lâm tự phu nhân chi. 
 Công sinh đương Quý Hợi niên, cửu nguyệt, nhị thập nhất nhật. Ấu nhi hiếu học, cập 
trưởng tự ấm vi đại phu. 
 Quang Thuận niên gian, trừ Minh Uy tướng quân chinh Bồn Man hữu công. 
 Hồng Đức niên gian, trừ Sùng Nghĩa tướng quân, chinh Chiêm Thành cầm hải tặc, 
thăng Minh Dực tướng quân. Cập tây chinh hữu lặc cán công thăng Anh Liệt tướng quân vị ki 
triều thần bảo vi Thanh Hoa Đô tổng binh sứ, tái điều Thái Nguyên tầm thụ sùng tiến Tuyên 
Lộc đại phu, Binh bộ Thượng thư. 
 Cảnh Thống nhị niên vinh thăng đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Bắc quân Đô 
đốc phủ, Tả Đô đốc Hoa Lâm bá trụ quốc ban. Chí Nhâm Tuất niên, ngũ nguyệt, sơ tam nhật 
Giáp Tuất hốt kỉ cáo hoăng. 
 Công tính trung hiếu, liêm cẩn, khiêm tĩnh, hữu tướng sư tài đa mưu lược. 
108 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 Hoàng đế thống tích vi chi xuyết triều, tứ điếu úy, tiền, mệnh quan dụ tế tặng Đặc tiến 
Phụ quốc Thượng tướng quân, Tả Đô đốc Hoa Lâm hầu trụ quốc, thụy Trang Mục. Tứ táng lễ 
binh, phu thuyền sưu cụ bị như nghi dĩ. Bản niên, cửu nguyệt, sơ thất nhật quy táng vu Vĩnh 
Ninh, Kim Tử hương, Phượng Dực sơn. 
 Phu nhân Lê Thị Tặng, Thái phó Tĩnh quận công chi đệ bát nữ. Sinh trưởng nữ Thục 
thích tiền triều liệt đại phu Lê Đạo Dịch, thứ nữ Uyển thích giản lĩnh cố Nguyễn Văn Chinh, 
tứ nữ Thuận đích gia hành đại phu Dụ ân sứ cố Lê Kính Thân, quý nữ Thiện giá nam Vĩnh 
Trinh tòng chính thượng ấu. Thượng Hữu đệ ngũ nữ Nhuận phu tế phụng trực đại phu nhân 
sùng ân sứ Trịnh Lý chủ tang sự tựu thỉnh chí minh dĩ kí kì sự triếp thuật huân phiệt quan 
tước như tiền vân. Minh viết: 
 Bán thiên khải thánh Cường cải văn phong Du âm tức giáng 
 Nhất nhung kì định Đĩnh thân thuyên phục Tam bành tác nghiệt 
 Duy liệt quận công Hoàng đế tân chính Nhất lão bất di 
 Thời cần tá mệnh Vưu giản tại tâm Dạ đài phủ nhĩ 
 Căn thâm diệp mậu Vị long đốc phủ Quy tâm như phi 
 Nguyên tuấn lưu hồng Tước xỉ Hoa Lâm Đột nhĩ quy trật 
 Công thừa phi ấm Niệm đốc khiêm vi Kiêu hô li thủ 
 Huân nghiệp ích long Giới thâm lí mãn Lặc thạc thùy hồng 
 Nội túc chu lư Thỉnh thích binh quyền Thiên trường địa cửu 
 Ngoại chuyên trang phục 
 Đại Việt, Cảnh Thống ngũ niên, tuế thứ Nhâm Tuất, thập nguyệt, nhất nhật. Tứ Quý Mùi 
khoa tiến sĩ Đạt Tín đại phu tu thiện thiếu doãn Quốc tử giám Tư nghiệp Hoàng Bồi soạn. 
 * Dịch nghĩa: 
 MỘ CHÍ TẢ ĐÔ ĐỐC HOA LÂM HẦU 
 THỤY TRANG MỤC TRỊNH PHỦ QUÂN 
 Nước Đại Việt. 
 Văn bia mộ chí cụ họ Trịnh, thụy Trang Mục được đặc tiến phong tặng Phụ quốc 
Thượng tướng quân, Tả Đô đốc, Hoa Lâm hầu, trụ quốc. Theo chế phong từ đời xưa lập bia 
để ghi chép công trạng lưu truyền hậu thế. 
 Hoa Lâm hầu họ Trịnh, tên là Tốn, tên chữ Kính Chỉ, người huyện Vĩnh Ninh, Thanh 
Hoa5. Cha tên là Khả6, phò tá Lê Thái Tổ hoàn thành nghiệp lớn nên được tặng Thái úy Liệt 
quận công. Mẹ cả họ Giả được phong Liệt quận phu nhân. Mẹ đẻ là Phạm Thị. Cụ sinh ngày 
21 tháng 9 năm Quý Hợi7. Lúc nhỏ rất hiếu học, khi lớn lên, được ấm phong làm đại phu. 
 Vào niên hiệu Quang Thuận8, được phong làm Minh Uy tướng quân, đi chinh phạt quân 
5 Là tỉnh Thanh Hóa ngày nay 
6
 Tức cụ Trịnh Khả, là một danh tướng của khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo 
7 Năm 1443 
8 Vua Lê Thánh Tông trị vì với hai niên hiệu: niên hiệu Quang Thuận từ năm 1460 đến 1469, niên hiệu Hồng 
Đức từ năm 1470 - 1497 
 109 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
Bồn Man9 lập được chiến công. 
 Trong niên hiệu Hồng Đức, được phong làm Sùng Nghĩa tướng quân, đem quân đi 
chinh phạt Chiêm Thành, bắt được hải tặc, được thăng Minh Dực tướng quân. Cùng với việc 
đánh giặc phía Tây được thăng Anh Liệt tướng quân, làm Đô Tổng binh Thanh Hoa. Lại được 
điều lên Thái Nguyên, được trao tặng Sùng tiến Tuyên Lộc đại phu, chức Thượng thư bộ 
Binh. Năm Cảnh Thống thứ 210 được vinh dự thăng đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, 
Bắc quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc Hoa Lâm bá, Trụ quốc. 
 Ngày mùng 3 (ngày Giáp Tuất) tháng 5 năm Nhâm Tuất11, ông mất đột ngột. 
 Tính ông trung hiếu, liêm khiết, cẩn thận, khiêm nhường, là vị tướng soái lắm tài mưu lược. 
 Hoàng đế vô cùng thương tiếc, cho nghỉ triều, ban cho bài điếu, tiền bạc để an ủi; lệnh 
cho mệnh quan vâng dụ tế, tặng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tả Đô đốc, Hoa Lâm 
hầu, Trụ quốc; ban tên thụy làTrang Mục. Được táng theo nghi lễ nhà binh; được cấp thuyền 
bè và đủ mọi thứ đồ lễ. 
 Ngày mùng 7 tháng 9 cùng năm đưa về táng tại núi Phượng Dực, làng Kim Tử, huyện 
Vĩnh Ninh12. 
 Phu nhân Lê Thị Tặng là con gái thứ 8 của Thái Tĩnh quận công. Trưởng nữ là Thục, 
làm vợ quan cùng triều là Đại phu Lê Đạo Dịch; người con gái thứ tên Uyên lấy Giản lĩnh cố 
Nguyễn Văn Chinh; người con gái thứ tư tên Thuận lấy Dụ ân sứ Lê Kính Thân; người con 
gái út tên Thiện, lấy chồng người Vĩnh Trinh tham chính từ khi còn nhỏ. Trên đó còn có 
người con gái thứ năm tên là Nhuận, chồng là Phụng Trực đại phu Sùng ân sứ Trịnh Lý làm 
chủ tang, xin làm bài minh để ghi chép, thuật lại công lao, quan tước to lớn trước đây. Bài 
minh như sau: 
 Cả đời phò vua Ngôi cao đô đốc 
 Binh nghiệp đến cùng Đẹp tước Hoa Lâm 
 Là ngài quận công Dốc hết sức mình 
 Cần mẫn giúp nước. Trải nhiều năm tháng 
 Rễ dày lá tốt Binh quyền xin cáo 
 Dòng cả nguồn sâu Chiếu lệnh vua ban. 
 Tập ấm phúc nhà Bệnh tật tác quái 
 Vinh quang đầy đủ. Mãi mãi ông đi 
 Giữ yên gia thất, Cõi âm đành vậy 
 Việc nước tôn nghiêm, Quy nhanh như phi. 
 Đổi thay mạnh mẽ Ông về cõi ấy 
 Phủ phục cúi lạy Tựa rồng vụt bay. 
 Hoàng đế chấp chính Khắc bia để lại 
 Ông bộc bạch lòng: Lưu đất trời này. 
9 Bồn Man là một quốc gia cổ từng tồn tại ở khu vực tỉnh Xiêng Khoảng, một phần các tỉnh Hủa Phăn đến Khăm 
Muộn, ở phía Đông nước Lào, và một phần phía Tây các tỉnh miền Bắc Trung bộ Việt Nam (khoảng Nghệ 
An đến Quảng Bình). Ngày nay thuộc lãnh thổ Lào. 
10 Cảnh Thống là niên hiệu của vua Lê Hiến Tông. Cảnh Thống nhị niên là năm 1496. 
11 Tức năm 1502. 
12 Nay thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. 
110 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 Nước Đại Việt, niên hiệu Cảnh Thống thứ 5, ngày 01 tháng 10 năm Nhâm Tuất, Tiến sĩ 
khoa Quý Mùi, Đạt Tín Đại phu Tu thiện Thiếu doãn, Quốc tử giám Tư nghiệp Hoàng Bồi14 soạn. 
 3. Một vài nhận xét bƣớc đầu 
 Từ bước đầu tiếp cận nội dung và nghệ thuật văn bia ghi chép về Trịnh Quý Tốn, một 
nhân vật lịch sử của thời Hậu Lê vừa được phát hiện tại Thanh Hóa, có thể nhận xét một số 
điểm căn bản sau: 
 - Văn bia Lê Sơ có đặc điểm dễ nhận thấy vẫn là phổ biến hình thức bia mộ là chủ yếu, 
như đã thấy tại Lam Kinh. Tuy nhiên, khác với giai đoạn đầu, các bia chủ yếu gắn với vua và 
hoàng tộc nhà Lê, càng về cuối TK XV đến đầu TK XVI, các bia mộ của các công thần, quan 
lại, nhân vật lịch sử là trọng quan của triều đình Thăng Long mới được cho phép rộng rãi hơn, 
chí ít là sau thời Lê Thánh Tông. 
 - Văn bia chép về công nghiệp Trịnh Quý Tốn, một người con của vị Khai quốc công 
thần Trịnh Khả, người đã theo Lê Lợi làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Điều 
đó cho thấy ảnh hưởng của các nhân vật lịch sử trong giai đoạn đầu thời kỳ Lê Sơ lên nền 
chính trị của đất nước còn khá lớn với những gia tộc nối đời cha, con, cháu tham gia chính sự 
và nhận được sự tín nhiệm của hoàng gia. Có một chi tiết khá thú vị là dòng họ Trịnh Khả là 
một trong số ít gia tộc công thần khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa còn lại bia ký ghi chép 
đầy đủ về cha con ông gồm bia “Đại Nam quốc Thái úy từ đường bi minh” (xã Vĩnh Hòa, 
huyện Vĩnh Lộc - 1447 đời Lê Nhân Tông), bia “Tặng thư quận công Trịnh công chi bi” đời 
Hồng Đức 28 (1487) về con trai Trịnh Công Đán ở xã Định Hải, huyện Yên Định và bia: “Mộ 
chí Tả Đô đốc Hoa Lâm hầu Thụy Trang Mục Trịnh phủ quân” (1502) về nhân vật Trịnh Quý 
Tốn ở xã Hà Sơn, huyện Hà Trung. Có lẽ đây là một trường hợp khá hiếm hoi về một gia tộc 
công thần có được những thông tin ghi chép quý giá về nhân vật và thông tin lịch sử còn lại ở 
Thanh Hóa đến tận ngày nay. Đây là những cứ liệu quan trọng cho ta hiểu biết thêm các thông 
tin về lịch sử - xã hội thời Lê Sơ. 
 - Tấm bia hộp vừa được phát hiện tại xã Hà Sơn, huyện Hà Trung cho ta sáng tỏ thêm 
về cuộc đời và sự nghiệp của một vị quan lại trọng yếu dưới triều Lê Sơ. Ông đã cống hiến 
gần như cả cuộc đời bên cạnh một trong những vị vua nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử phong 
kiến nước ta - vua Lê Thánh Tông. Theo gia phả Hán văn dòng họ Trịnh Khả còn lại tại Cự 
Đà (Hà Nội), cụ Trịnh Khả có 13 người con trai, cụ Trịnh Quý Tốn là người thứ 9. Gia phả 
chỉ chép một hai dòng về chức tước của cụ Tốn. Bài văn bia cho ta biết khá nhiều chi tiết về 
cụ Tốn, có thể giúp hậu duệ cụ Trịnh Khả bổ sung thêm một số nội dung mới và quý giá này. 
Nói về những người con của Trịnh Khả, vua Lê Thánh Tông từng ngợi ca trong bài “Quân 
minh thần lương” (Vua sáng tôi hiền): “Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển” (nghĩa là: Mười 
anh em họ Trịnh đều vẻ vang phú quý). Mười anh em họ Trịnh ở đây là 10 người con của cụ 
Trịnh Khả và Trịnh Quý Tốn là người con thứ 9 trong số 10 người đó. 
14 Hoàng Bồi (1437-?) người xã Cam Giá Hạ, huyện Phúc Lộc (nay thuộc xã Cam Thượng, huyện Ba Vì, Hà 
Nội). Ông đỗ tiến sĩ năm 1463 và làm quan đến chức Thượng thư Bộ Hộ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. 
 111 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 - Bia Trịnh Quý Tốn có thể được xem là một trong ít các bia thuộc dạng khối hộp vốn 
xuất hiện khá ít ở Thanh Hóa như: Đại Việt Thái Bảo Bình Lạc hầu mộ chí (1484) ở xã Xuân 
Thắng, huyện Thọ Xuân; Trùng tu Xuân Đài sơn Hồ Công động Du Anh tự bi ở chùa Du Anh, 
huyện Vĩnh Lộc; Bảo điền Am tự (1681) ở huyện Triệu Sơn; Bia Tạ Tôn Đài (1683) ở huyện 
Hậu Lộc; bia Trịnh Thị Ngọc Lung (1688) ở xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân và bia Phúc Thần 
bi ký (1779) ở xã Ngọc Lĩnh, huyện Tĩnh Gia... 
 Sự tạo tác khá đặc biệt của tấm bia và công trạng của dòng họ Trịnh nói chung cũng như 
nhân vật Trịnh Quý Tốn nói riêng, hy vọng sau này sẽ nhận được sự khảo cứu và đánh giá kỹ 
lưỡng hơn của giới sử học trong và ngoài tỉnh. 
 Tài liệu tham khảo 
 [1]. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2002), Lịch sử Thanh Hóa, tập 3, 
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
 [2]. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (1998), “Thanh Hóa thời Lê”, Kỷ 
yếu hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 500 năm ngày mất Lê Thánh Tông 1497- 1997. 
 [3]. Lê Ngọc Tạo (2001), Các chính sách về xã hội của nhà nước thời Lê sơ (1428 -
1527), Luận án Tiến sĩ, Viện Sử học. 
 [4]. Lê Văn Tạo, Nguyễn Văn Hải (2008), Những bia ký điển hình ở Thanh Hóa, NXB 
Thanh Hóa. 
 [5]. Tuyển tập văn bia Thanh Hóa (2013), tập 2, Văn bia Lê sơ, NXB Thanh Hóa. 
 [6].https://buoc-dau-tim-hieu-nhung-gia-tri-cua-van-bia-viet-nam-doi-voi-viec-nghien-
cuu-tu-tuong-chinh-tri-xa-hoi-nuoc-ta-thoi-phong-kien. 
 A STUDY ON THE INSCRIPTION WRITTEN ABOUT TRINH QUY 
 TON UNDER THE LATE LE DYNASTY 
 Trinh Duy Tuan 
 Abstract: A sizable number of inscriptions under the late Le Dynasty, many of which 
related to kings and royal families, are scattered among different areas in Thanh Hoa, mainly 
in Lam Son so far. Information about mandarins and royal families under the later Le 
Dynasty is not recorded much. However, inscriptions provide us with historical documents 
and the life of famous historical figures, from which we have a better understanding of the 
socio-political life in a historical period. The newly - discovered inscription written about 
Trinh Quy Ton helps us to have a better understanding of a royal family. 
 Key words: the later Le Dynasty; study; the inscription written about Trinh Quy Ton 
Người phản biện: TS. Hà Đình Hùng (ngày nhận bài 28/5/2020; ngày gửi phản biện 22/8/2020 
ngày duyệt đăng 06/11/2020). 
112 

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_khao_cuu_tam_bia_ghi_chep_ve_nhan_vat_trinh_quy_ton.pdf