Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê
Bia ký thời Hậu Lê đến nay nằm rải rác trong các địa phương ở Thanh Hóa
với số lượng tương đối, tập trung chủ yếu ở vùng Lam Sơn và phổ biến là bia ký liên quan đến
các vua và hoàng tộc. Tuy nhiên, mặc dù các bia ghi chép về công nghiệp một số tướng lĩnh,
quan lại của thời kỳ này còn khá khiêm tốn nhưng tính giá trị về tư liệu lịch sử cũng như cuộc
đời của nhân vật giúp cho chúng ta có thêm những thông tin bổ ích để hình dung rõ hơn về
đời sống chính trị - xã hội gắn với một thời kỳ lịch sử; và tấm bia về Trịnh Quý Tốn mới vừa
được phát hiện thời gian gần đây cho phép ta sáng tỏ thêm về gia thế của một gia tộc công
thần khai quốc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu khảo cứu tấm bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn thời Hậu Lê
xa, xứng đáng đại diện cho phong cách chuẩn mực của văn bia Việt Nam thế kỷ XV - XVI3. Nếu như các bia ký thời Lý - Trần mà chúng ta biết đến hiện nay thường gắn với chùa, thì thời kỳ này ngoài các bia ở chùa, xuất hiện nhiều bia ký ở lăng mộ của vua và quý tộc, quan lại. Thế kỷ XV - XVI, ở Thanh Hóa nổi bật là các bia ký gắn với quần thể lăng mộ Lam Kinh, đặc trưng bố cục là mạch nối tiếp dòng bia truyền thống Việt Nam, tạo hình thường chia làm 3 phần, gồm: trán, thân và đế bia và ở mỗi bộ phận trên thường tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử- xã hội và quan niệm của mỗi thời mà có những đồ án trang trí khác nhau thể hiện các quan điểm tư tưởng, nhân sinh quan4. Sách Tuyển tập Văn bia Thanh Hóa, tập 2, xuất bản năm 2013 đã đề cập toàn diện 48 đơn vị văn bia thời Lê Sơ, đây là những thác bản vô cùng quý giá còn lại trong hệ thống bia ký thời kỳ Lê Sơ. Rất tiếc là văn bia ghi chép về nhân vật Trịnh Quý Tốn có niên đại Cảnh Thống 1502 được đề cập trong bài viết này là một văn bia mới vừa được phát hiện cho nên sách chưa có điều kiện để cập nhật. Mong rằng, trong một tương lai không xa, bia Trịnh Quý Tốn và nhiều bia khác có niên đại Lê Sơ được phát hiện trong dân gian sẽ được bổ sung, khảo cứu và hiệu đính để độc giả có được cái nhìn phong phú, đa dạng hơn về nhân vật cũng như nội dung và nghệ thuật tạo tác các bia ký thuộc thời kỳ này. 2. Nội dung cơ bản về văn bia Trịnh Quý Tốn vừa đƣợc phát hiện 2.1. Quá trình phát hiện Đầu năm 2020, một gia đình nông dân ở xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, trong lúc san ủi đất để làm vườn, đã phát hiện 1 hộp đá gồm 2 phiến được gắn liền với nhau ở độ sâu khoảng 1m. Kích thước: dài 0,8m, rộng 0,5m, dày 0,15m. Gỡ ra thì mới biết đây là hộp bia mộ vốn được chôn sâu dưới lòng đất chứ không để lộ thiên như các tấm bia mộ thường thấy. Loại bia này không nhiều, niên đại thời Lê Sơ, ở Thanh Hóa có thể chỉ đếm trên đầu ngón tay. Vì hai phiến đá được gắn với nhau bằng một loại chất kết dính đặc biệt nên nước không vào được. Viền xung quanh nắp bia khoảng 3cm lồi lên, viền xung quanh mặt bia cũng khoảng 3cm lõm xuống để khi ghép lại, thành 1 khối không thể xê dịch. Vì vậy, chữ Hán trong hai mặt của hai phiến đá (tức nắp bia và mặt bia) vẫn còn nguyên vẹn (xem ảnh). 3 Lê Văn Tạo, Nguyễn Văn Hải (2008), Những bia ký điển hình ở Thanh Hóa, NXB Thanh Hóa, tr 15. 4 Tuyển tập văn bia Thanh Hóa, tập 2, Văn bia Lê sơ, NXB Thanh Hóa, 2013, tr 795. 107 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Nắp bia Mặt bia Cả nắp và mặt bia không có hoa văn trang trí. Trên nắp bia khắc 19 chữ Hán với chiều cao mỗi chữ khoảng 4cm: “Đại Việt tặng Tả Đô đốc, Hoa Lâm hầu, Trụ quốc thụy Trang Mục Trịnh phủ quân mộ chí”. Mặt bia có 20 hàng dọc chữ Hán với khoảng trên dưới 500 chữ loại nhỏ. Ở đây, chỉ xin phiên âm ra tiếng Việt trong mặt bia. 2.2. Nội dung văn bia * Phiên âm chữ Hán: Đại Việt quốc. Tặng đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tả Đô đốc Hoa Lâm hầu, trụ quốc, thụy Trang Mục Trịnh công mộ chí minh tinh tự cổ giả chi chế phong bi sở dĩ kỉ huân phiệt thùy hậu thế dã. Kim Đại Việt Hoa Lâm hầu tính Trịnh, húy Tốn, tự Kính Chỉ, Thanh Hoa, Vĩnh Ninh huyện nhân. Khảo húy Khả, tá Thái Tổ thành đại công tặng Thái úy Liệt quận công. Đích mẫu Giả thị, phong Liệt quận phu nhân, sinh mẫu Phạm Thị phong Hoa Lâm tự phu nhân chi. Công sinh đương Quý Hợi niên, cửu nguyệt, nhị thập nhất nhật. Ấu nhi hiếu học, cập trưởng tự ấm vi đại phu. Quang Thuận niên gian, trừ Minh Uy tướng quân chinh Bồn Man hữu công. Hồng Đức niên gian, trừ Sùng Nghĩa tướng quân, chinh Chiêm Thành cầm hải tặc, thăng Minh Dực tướng quân. Cập tây chinh hữu lặc cán công thăng Anh Liệt tướng quân vị ki triều thần bảo vi Thanh Hoa Đô tổng binh sứ, tái điều Thái Nguyên tầm thụ sùng tiến Tuyên Lộc đại phu, Binh bộ Thượng thư. Cảnh Thống nhị niên vinh thăng đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Bắc quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc Hoa Lâm bá trụ quốc ban. Chí Nhâm Tuất niên, ngũ nguyệt, sơ tam nhật Giáp Tuất hốt kỉ cáo hoăng. Công tính trung hiếu, liêm cẩn, khiêm tĩnh, hữu tướng sư tài đa mưu lược. 108 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Hoàng đế thống tích vi chi xuyết triều, tứ điếu úy, tiền, mệnh quan dụ tế tặng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tả Đô đốc Hoa Lâm hầu trụ quốc, thụy Trang Mục. Tứ táng lễ binh, phu thuyền sưu cụ bị như nghi dĩ. Bản niên, cửu nguyệt, sơ thất nhật quy táng vu Vĩnh Ninh, Kim Tử hương, Phượng Dực sơn. Phu nhân Lê Thị Tặng, Thái phó Tĩnh quận công chi đệ bát nữ. Sinh trưởng nữ Thục thích tiền triều liệt đại phu Lê Đạo Dịch, thứ nữ Uyển thích giản lĩnh cố Nguyễn Văn Chinh, tứ nữ Thuận đích gia hành đại phu Dụ ân sứ cố Lê Kính Thân, quý nữ Thiện giá nam Vĩnh Trinh tòng chính thượng ấu. Thượng Hữu đệ ngũ nữ Nhuận phu tế phụng trực đại phu nhân sùng ân sứ Trịnh Lý chủ tang sự tựu thỉnh chí minh dĩ kí kì sự triếp thuật huân phiệt quan tước như tiền vân. Minh viết: Bán thiên khải thánh Cường cải văn phong Du âm tức giáng Nhất nhung kì định Đĩnh thân thuyên phục Tam bành tác nghiệt Duy liệt quận công Hoàng đế tân chính Nhất lão bất di Thời cần tá mệnh Vưu giản tại tâm Dạ đài phủ nhĩ Căn thâm diệp mậu Vị long đốc phủ Quy tâm như phi Nguyên tuấn lưu hồng Tước xỉ Hoa Lâm Đột nhĩ quy trật Công thừa phi ấm Niệm đốc khiêm vi Kiêu hô li thủ Huân nghiệp ích long Giới thâm lí mãn Lặc thạc thùy hồng Nội túc chu lư Thỉnh thích binh quyền Thiên trường địa cửu Ngoại chuyên trang phục Đại Việt, Cảnh Thống ngũ niên, tuế thứ Nhâm Tuất, thập nguyệt, nhất nhật. Tứ Quý Mùi khoa tiến sĩ Đạt Tín đại phu tu thiện thiếu doãn Quốc tử giám Tư nghiệp Hoàng Bồi soạn. * Dịch nghĩa: MỘ CHÍ TẢ ĐÔ ĐỐC HOA LÂM HẦU THỤY TRANG MỤC TRỊNH PHỦ QUÂN Nước Đại Việt. Văn bia mộ chí cụ họ Trịnh, thụy Trang Mục được đặc tiến phong tặng Phụ quốc Thượng tướng quân, Tả Đô đốc, Hoa Lâm hầu, trụ quốc. Theo chế phong từ đời xưa lập bia để ghi chép công trạng lưu truyền hậu thế. Hoa Lâm hầu họ Trịnh, tên là Tốn, tên chữ Kính Chỉ, người huyện Vĩnh Ninh, Thanh Hoa5. Cha tên là Khả6, phò tá Lê Thái Tổ hoàn thành nghiệp lớn nên được tặng Thái úy Liệt quận công. Mẹ cả họ Giả được phong Liệt quận phu nhân. Mẹ đẻ là Phạm Thị. Cụ sinh ngày 21 tháng 9 năm Quý Hợi7. Lúc nhỏ rất hiếu học, khi lớn lên, được ấm phong làm đại phu. Vào niên hiệu Quang Thuận8, được phong làm Minh Uy tướng quân, đi chinh phạt quân 5 Là tỉnh Thanh Hóa ngày nay 6 Tức cụ Trịnh Khả, là một danh tướng của khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo 7 Năm 1443 8 Vua Lê Thánh Tông trị vì với hai niên hiệu: niên hiệu Quang Thuận từ năm 1460 đến 1469, niên hiệu Hồng Đức từ năm 1470 - 1497 109 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Bồn Man9 lập được chiến công. Trong niên hiệu Hồng Đức, được phong làm Sùng Nghĩa tướng quân, đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành, bắt được hải tặc, được thăng Minh Dực tướng quân. Cùng với việc đánh giặc phía Tây được thăng Anh Liệt tướng quân, làm Đô Tổng binh Thanh Hoa. Lại được điều lên Thái Nguyên, được trao tặng Sùng tiến Tuyên Lộc đại phu, chức Thượng thư bộ Binh. Năm Cảnh Thống thứ 210 được vinh dự thăng đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Bắc quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc Hoa Lâm bá, Trụ quốc. Ngày mùng 3 (ngày Giáp Tuất) tháng 5 năm Nhâm Tuất11, ông mất đột ngột. Tính ông trung hiếu, liêm khiết, cẩn thận, khiêm nhường, là vị tướng soái lắm tài mưu lược. Hoàng đế vô cùng thương tiếc, cho nghỉ triều, ban cho bài điếu, tiền bạc để an ủi; lệnh cho mệnh quan vâng dụ tế, tặng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tả Đô đốc, Hoa Lâm hầu, Trụ quốc; ban tên thụy làTrang Mục. Được táng theo nghi lễ nhà binh; được cấp thuyền bè và đủ mọi thứ đồ lễ. Ngày mùng 7 tháng 9 cùng năm đưa về táng tại núi Phượng Dực, làng Kim Tử, huyện Vĩnh Ninh12. Phu nhân Lê Thị Tặng là con gái thứ 8 của Thái Tĩnh quận công. Trưởng nữ là Thục, làm vợ quan cùng triều là Đại phu Lê Đạo Dịch; người con gái thứ tên Uyên lấy Giản lĩnh cố Nguyễn Văn Chinh; người con gái thứ tư tên Thuận lấy Dụ ân sứ Lê Kính Thân; người con gái út tên Thiện, lấy chồng người Vĩnh Trinh tham chính từ khi còn nhỏ. Trên đó còn có người con gái thứ năm tên là Nhuận, chồng là Phụng Trực đại phu Sùng ân sứ Trịnh Lý làm chủ tang, xin làm bài minh để ghi chép, thuật lại công lao, quan tước to lớn trước đây. Bài minh như sau: Cả đời phò vua Ngôi cao đô đốc Binh nghiệp đến cùng Đẹp tước Hoa Lâm Là ngài quận công Dốc hết sức mình Cần mẫn giúp nước. Trải nhiều năm tháng Rễ dày lá tốt Binh quyền xin cáo Dòng cả nguồn sâu Chiếu lệnh vua ban. Tập ấm phúc nhà Bệnh tật tác quái Vinh quang đầy đủ. Mãi mãi ông đi Giữ yên gia thất, Cõi âm đành vậy Việc nước tôn nghiêm, Quy nhanh như phi. Đổi thay mạnh mẽ Ông về cõi ấy Phủ phục cúi lạy Tựa rồng vụt bay. Hoàng đế chấp chính Khắc bia để lại Ông bộc bạch lòng: Lưu đất trời này. 9 Bồn Man là một quốc gia cổ từng tồn tại ở khu vực tỉnh Xiêng Khoảng, một phần các tỉnh Hủa Phăn đến Khăm Muộn, ở phía Đông nước Lào, và một phần phía Tây các tỉnh miền Bắc Trung bộ Việt Nam (khoảng Nghệ An đến Quảng Bình). Ngày nay thuộc lãnh thổ Lào. 10 Cảnh Thống là niên hiệu của vua Lê Hiến Tông. Cảnh Thống nhị niên là năm 1496. 11 Tức năm 1502. 12 Nay thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. 110 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Nước Đại Việt, niên hiệu Cảnh Thống thứ 5, ngày 01 tháng 10 năm Nhâm Tuất, Tiến sĩ khoa Quý Mùi, Đạt Tín Đại phu Tu thiện Thiếu doãn, Quốc tử giám Tư nghiệp Hoàng Bồi14 soạn. 3. Một vài nhận xét bƣớc đầu Từ bước đầu tiếp cận nội dung và nghệ thuật văn bia ghi chép về Trịnh Quý Tốn, một nhân vật lịch sử của thời Hậu Lê vừa được phát hiện tại Thanh Hóa, có thể nhận xét một số điểm căn bản sau: - Văn bia Lê Sơ có đặc điểm dễ nhận thấy vẫn là phổ biến hình thức bia mộ là chủ yếu, như đã thấy tại Lam Kinh. Tuy nhiên, khác với giai đoạn đầu, các bia chủ yếu gắn với vua và hoàng tộc nhà Lê, càng về cuối TK XV đến đầu TK XVI, các bia mộ của các công thần, quan lại, nhân vật lịch sử là trọng quan của triều đình Thăng Long mới được cho phép rộng rãi hơn, chí ít là sau thời Lê Thánh Tông. - Văn bia chép về công nghiệp Trịnh Quý Tốn, một người con của vị Khai quốc công thần Trịnh Khả, người đã theo Lê Lợi làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Điều đó cho thấy ảnh hưởng của các nhân vật lịch sử trong giai đoạn đầu thời kỳ Lê Sơ lên nền chính trị của đất nước còn khá lớn với những gia tộc nối đời cha, con, cháu tham gia chính sự và nhận được sự tín nhiệm của hoàng gia. Có một chi tiết khá thú vị là dòng họ Trịnh Khả là một trong số ít gia tộc công thần khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa còn lại bia ký ghi chép đầy đủ về cha con ông gồm bia “Đại Nam quốc Thái úy từ đường bi minh” (xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc - 1447 đời Lê Nhân Tông), bia “Tặng thư quận công Trịnh công chi bi” đời Hồng Đức 28 (1487) về con trai Trịnh Công Đán ở xã Định Hải, huyện Yên Định và bia: “Mộ chí Tả Đô đốc Hoa Lâm hầu Thụy Trang Mục Trịnh phủ quân” (1502) về nhân vật Trịnh Quý Tốn ở xã Hà Sơn, huyện Hà Trung. Có lẽ đây là một trường hợp khá hiếm hoi về một gia tộc công thần có được những thông tin ghi chép quý giá về nhân vật và thông tin lịch sử còn lại ở Thanh Hóa đến tận ngày nay. Đây là những cứ liệu quan trọng cho ta hiểu biết thêm các thông tin về lịch sử - xã hội thời Lê Sơ. - Tấm bia hộp vừa được phát hiện tại xã Hà Sơn, huyện Hà Trung cho ta sáng tỏ thêm về cuộc đời và sự nghiệp của một vị quan lại trọng yếu dưới triều Lê Sơ. Ông đã cống hiến gần như cả cuộc đời bên cạnh một trong những vị vua nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử phong kiến nước ta - vua Lê Thánh Tông. Theo gia phả Hán văn dòng họ Trịnh Khả còn lại tại Cự Đà (Hà Nội), cụ Trịnh Khả có 13 người con trai, cụ Trịnh Quý Tốn là người thứ 9. Gia phả chỉ chép một hai dòng về chức tước của cụ Tốn. Bài văn bia cho ta biết khá nhiều chi tiết về cụ Tốn, có thể giúp hậu duệ cụ Trịnh Khả bổ sung thêm một số nội dung mới và quý giá này. Nói về những người con của Trịnh Khả, vua Lê Thánh Tông từng ngợi ca trong bài “Quân minh thần lương” (Vua sáng tôi hiền): “Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển” (nghĩa là: Mười anh em họ Trịnh đều vẻ vang phú quý). Mười anh em họ Trịnh ở đây là 10 người con của cụ Trịnh Khả và Trịnh Quý Tốn là người con thứ 9 trong số 10 người đó. 14 Hoàng Bồi (1437-?) người xã Cam Giá Hạ, huyện Phúc Lộc (nay thuộc xã Cam Thượng, huyện Ba Vì, Hà Nội). Ông đỗ tiến sĩ năm 1463 và làm quan đến chức Thượng thư Bộ Hộ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. 111 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI - Bia Trịnh Quý Tốn có thể được xem là một trong ít các bia thuộc dạng khối hộp vốn xuất hiện khá ít ở Thanh Hóa như: Đại Việt Thái Bảo Bình Lạc hầu mộ chí (1484) ở xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân; Trùng tu Xuân Đài sơn Hồ Công động Du Anh tự bi ở chùa Du Anh, huyện Vĩnh Lộc; Bảo điền Am tự (1681) ở huyện Triệu Sơn; Bia Tạ Tôn Đài (1683) ở huyện Hậu Lộc; bia Trịnh Thị Ngọc Lung (1688) ở xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân và bia Phúc Thần bi ký (1779) ở xã Ngọc Lĩnh, huyện Tĩnh Gia... Sự tạo tác khá đặc biệt của tấm bia và công trạng của dòng họ Trịnh nói chung cũng như nhân vật Trịnh Quý Tốn nói riêng, hy vọng sau này sẽ nhận được sự khảo cứu và đánh giá kỹ lưỡng hơn của giới sử học trong và ngoài tỉnh. Tài liệu tham khảo [1]. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2002), Lịch sử Thanh Hóa, tập 3, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [2]. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (1998), “Thanh Hóa thời Lê”, Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 500 năm ngày mất Lê Thánh Tông 1497- 1997. [3]. Lê Ngọc Tạo (2001), Các chính sách về xã hội của nhà nước thời Lê sơ (1428 - 1527), Luận án Tiến sĩ, Viện Sử học. [4]. Lê Văn Tạo, Nguyễn Văn Hải (2008), Những bia ký điển hình ở Thanh Hóa, NXB Thanh Hóa. [5]. Tuyển tập văn bia Thanh Hóa (2013), tập 2, Văn bia Lê sơ, NXB Thanh Hóa. [6].https://buoc-dau-tim-hieu-nhung-gia-tri-cua-van-bia-viet-nam-doi-voi-viec-nghien- cuu-tu-tuong-chinh-tri-xa-hoi-nuoc-ta-thoi-phong-kien. A STUDY ON THE INSCRIPTION WRITTEN ABOUT TRINH QUY TON UNDER THE LATE LE DYNASTY Trinh Duy Tuan Abstract: A sizable number of inscriptions under the late Le Dynasty, many of which related to kings and royal families, are scattered among different areas in Thanh Hoa, mainly in Lam Son so far. Information about mandarins and royal families under the later Le Dynasty is not recorded much. However, inscriptions provide us with historical documents and the life of famous historical figures, from which we have a better understanding of the socio-political life in a historical period. The newly - discovered inscription written about Trinh Quy Ton helps us to have a better understanding of a royal family. Key words: the later Le Dynasty; study; the inscription written about Trinh Quy Ton Người phản biện: TS. Hà Đình Hùng (ngày nhận bài 28/5/2020; ngày gửi phản biện 22/8/2020 ngày duyệt đăng 06/11/2020). 112
File đính kèm:
- buoc_dau_khao_cuu_tam_bia_ghi_chep_ve_nhan_vat_trinh_quy_ton.pdf