Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang

Bài viết đề cập đến thực trạng tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre với những

biến đổi của nó trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó chúng tôi sẽ làm rõ

những thay đổi trong niềm tin tín ngưỡng; thực hành tín ngưỡng; đối tượng, cơ

sở thờ tự và lễ vật thờ cúng. Phần cuối báo cáo là một số kết luận về quá trình

biến đổi tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, đồng thời chỉ ra sự tồn tại song

hành hai xu hướng vận động của tín ngưỡng, đó là gìn giữ tín ngưỡng theo nếp

cũ (truyền thống) và biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới

Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang trang 1

Trang 1

Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang trang 2

Trang 2

Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang trang 3

Trang 3

Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang trang 4

Trang 4

Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 4560
Bạn đang xem tài liệu "Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang

Biến đổi trong tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre, thành phố Nha Trang
g đổi thay về 
Vũng Me, Vũng Ngán, Đầm Bấy, Bích Đầm. môi trường, điều kiện sống là tác nhân gây nên 
 Cuộc sống mưu sinh bằng nghề biển đầy hiểm những biến đổi về văn hóa tinh thần. Những thực 
nguy, bất trắc nên sự ra đời của tín ngưỡng như một hành sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng cổ truyền của cư 
nhu cầu lớn lao, là chỗ dựa về mặt tinh thần không dân vùng đảo được duy trì, diễn ra trong một bối 
 cảnh phức tạp như vậy không thể không có các biến 
 đổi khác trước. Bài viết này đề cập đến thực trạng tín 
1 Nhiều cư dân địa phương cho rằng tên đúng của đảo phải 
là Hòn Che bởi đảo có vị trí án ngữ dông bão, che chắn cho ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre với những biến đổi 
thành phố Nha Trang. của nó trong bối cảnh hiện nay. 
 T.T.Q.Anh/ No.18_Oct 2020|p.72-76 
 2. NỘI DUNG Ngư dân Phạm Phú2 kể, cách đây gần 10 năm, tàu 
 2.1. Thay đổi trong niềm tin tín ngưỡng ông đang đánh bắt trên vùng biển Hoàng Sa thì bỗng 
 nhiên gặp bão lớn. Tàu chìm, toàn bộ ngư dân đi 
 Sự kết hợp giữa yếu tố nông nghiệp trong cội 
 thuyền bị sóng nhồi kiệt sức và buông xuôi sau đó. 
nguồn và ngư nghiệp nơi vùng đất mới trong sinh 
 Còn ông, nhờ có sức khỏe và may mắn bám vào cây 
hoạt và lao động sản xuất đã dẫn đến sự đa dạng 
 khô trôi nổi trên biển nên trụ lại lâu hơn. Nhưng 
trong tâm thức thờ thần của người Việt trên đảo Hòn 
 nhiều giờ bị sóng đánh, ông cũng đuối sức. Giữa lúc 
Tre. Niềm tin là yếu tố cốt lõi để tạo nên tâm thức tín 
 cái chết cận kề, ngư dân van vái và được Ông Nam 
ngưỡng và được biểu hiện qua các hành vi thờ cúng. 
 Hải đến cứu giúp. Đến bây giờ, ông vẫn còn nguyên 
 Đối với cư dân Hòn Tre, niềm tin tín ngưỡng cảm giác mừng rỡ khi thân mình đang chìm dưới 
được thể hiện qua việc thờ cúng cá Voi, thờ thần nước bỗng dưng được Ông đẩy lên và đưa nhanh vào 
Thành Hoàng, thờ Tiền hiền, Hậu hiền, thờ Nữ bờ [Nguồn: kết quả phỏng vấn của tác giả]. 
thần/Mẫu thần, cúng Cô hồn/Cô bác. Ngoài ra, còn 
 Để có thông tin và số liệu cụ thể phục vụ cho việc 
có một số tục thờ khác như: thần Giám, thần cai quản, 
 phân tích biến đổi tín ngưỡng tại cộng đồng cư dân 
tổ nghề Niềm tin này được hình thành từ nhiều 
 Hòn Tre, chúng tôi đã tiến hành phát 210 phiếu hỏi ở 
nguyên nhân. Trước hết, xuất phát từ quan niệm “có 
 3 khóm đảo: Bích Đầm, Vũng Ngán và Đầm Bấy, 
thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Nhất là đối với cộng mỗi khóm đảo 70 phiếu. Trong đó có 120 nam, 90 
đồng cư dân sinh sống bằng nghề biển, nhiều rủi ro nữ; 70 người là ngư dân, 50 người buôn bán, dịch vụ, 
lắm hiểm nguy thì quan niệm này lại càng ăn sâu vào 20 người là cán bộ, công nhân viên chức và 70 người 
tâm thức của họ. Bên cạnh đó, khi mới đến định cư ở thuộc thành phần khác (sinh viên, thất nghiệp). 
vùng đất mới, người Việt đã lập nên các bàn thờ Kết quả khảo sát cho thấy, cư dân đảo Hòn Tre 
Thành Hoàng, Tiền hiền trước là để nhớ về cội vẫn đặt niềm tin vào các vị thần của làng như thần 
nguồn, tưởng nhớ công ơn, sau là để cầu xin sự phù hộ Nam Hải, Bà Thiên Y Ana, Thành hoàng, Lệnh chúa 
độ trì để được yên ổn, no ấm. Mặc khác, người miền thủy, Cô bác ở mức độ không giống nhau. 
biển luôn mang trong mình những câu chuyện, những 
giai thoại, những sự tích ly kỳ, tâm linh huyền bí, đó 
 2 Cộng tác viên Phạm Phú cư trú tại khóm đảo Bích Đầm 
cũng chính là cơ sở để người dân đặt niềm tin với sự 
 đã đồng ý cho tác giả đề cập họ tên của mình trong bài viết. 
linh thiêng của các vị thần. 
 Biểu đồ 1: Niềm tin vào tín ngưỡng của cư dân tại 3 điểm nghiên cứu 
 100
 90
 80
 70
 60
 Thành hoàng
 50
 Lệnh chúa thủy 
 40
 Thần Nam Hải 
 30
 Bà Thiên Y Ana
 20
 Cô bác
 10
 0
 Tin Không Không 
 tin biết 
 Bích Vũng Đầm Bấy Bích Vũng Đầm Bấy Bích Vũng Đầm Bấy 
 Đầm Ngán Đầm Ngán Đầm Ngán
 Nguồn: Xử lý kết quả điều tra bảng hỏi của tác giả
 T.T.Q.Anh/ No.18_Oct 2020|p.72-76 
 Ở biểu đồ 1, có thể thấy niềm tin của cư dân Hòn Thành Hoàng, 85.7% tin vào thần Nam Hải, 92.9% 
Tre dành cho các vị thần không có sự đồng nhất. Ở tin vào Thiên Y Ana và 78.6% tin vào Cô bác. 
Đầm Bấy, không quá 50% số người được hỏi tin vào Nhìn chung có một bộ phận cư dân đảo Hòn Tre 
sự linh thiêng của thần Thành Hoàng, Lệnh chúa hiện nay không còn tin vào các vị thần tín ngưỡng 
thủy, thần Nam Hải và Cô bác, đa số trả lời không tin của làng, trong khi trước đây được cả cộng đồng dân 
hoặc không biết gì về các vị thần đó. Trong khi đó ở biển tin theo, biểu hiện rõ nhất là Đầm Bấy. 
Vũng Ngán, niềm tin của người dân lại chủ yếu tập 2.2. Thay đổi trong thực hành tín ngưỡng 
trung vào các vị thần gắn với nghề biển như: thần Với niềm tin tín ngưỡng sâu sắc, trong truyền 
Nam Hải (73.4%), Bà Thiên Y Ana (74.2%), Cô bác thống cư dân Hòn Tre thực hành tín ngưỡng thường 
(55.7%). Không chỉ các vị thần gắn với nghề biển xuyên, không chỉ các dịp lễ hay lễ hội mà còn cả 
mới được đa số cư dân tin như ở Vũng Ngán, niềm trước mỗi lần đi biển và sau khi đi biển về. 
tin ở cư dân Bích Đầm trải đều ở cả các thần, thậm Khi đặt ra các câu hỏi có liên quan đến vấn đề 
chí mức độ còn đậm đặc hơn với 71.4% tin vào thần thực hành tín ngưỡng ở cư dân đảo Hòn Tre hiện nay, 
 chúng tôi thu được kết quả như sau: 
 Biểu đồ 2: Tần suất đến các cơ sở thờ tự của 3 làng 
 90
 80
 70
 60
 50
 1-2 lần/năm 
 40 3-5 lần/năm 
 30 Trên 5 lần/năm 
 20
 10
 0
 Bích Đầm Vũng Ngán Đầm Bấy Bích Đầm Vũng Ngán Đầm Bấy 
 Đình, Lăng Dinh, Miếu 
 Nguồn: Xử lý kết quả điều tra bảng hỏi của tác giả 
 Kết quả khảo sát tần suất đến cơ sở thờ tự cho đối tượng được thờ ở đây gắn liền với cuộc sống lao 
thấy, ở Đầm Bấy số người đến dinh, miếu ngày càng động hằng ngày còn dinh, miếu nằm tương đối xa 
giảm. Số người đến đình, lăng có tăng nhưng không lại ít “thân thuộc”. Bên cạnh đó, có một số nguyên 
đáng kể. Còn ở Vũng Ngán và Bích Đầm dù là đình, nhân tương đồng trong ý kiến của cư dân ở 3 làng 
lăng hay dinh, miếu số người đến có xu hướng tăng khi hỏi về sự thay đổi trong việc đến các cơ sở thờ 
lên, chủ yếu là 1-2 lần/năm vào những dịp có lễ cúng tự tín ngưỡng, đó là: Đi nhiều hơn vì tham gia vào 
lớn như lễ Cầu Ngư, lễ Vía Bà. Đồng thời số người Ban khánh tiết của làng, có thời gian rảnh nhiều hơn 
đến đình, lăng cũng nhiều hơn so với dinh, miếu. do già rồi không đi làm nữa; còn đi ít hơn vì bận đi 
Người dân cho biết, đình và lăng nằm ở giữa làng làm ngoài đất liền, không làm nghề biển nữa, bận 
nên tiện cho việc đi lại, cúng bái, hơn nữa những chăm con. 
 T.T.Q.Anh/ No.18_Oct 2020|p.72-76 
 Bảng 1. Đóng góp của các hộ gia đình cho hoạt động thực hành tín ngưỡng 
 Đầm Bấy Vũng Ngán Bích Đầm 
 Đóng góp 51,4 85,7 94,3 
 Không đóng góp 48,6 14,3 5,7 
 Nguồn: Xử lý kết quả điều tra bảng hỏi của tác giả 
 Đối với nội dung khảo sát đóng góp của các gia bằng xi măng cốt thép, không mang kiến trúc quen 
đình cho hoạt động tín ngưỡng tại đảo cho thấy hầu thuộc của Đức Ngư Ông, chỉ còn nhà lăng cấu trúc 3 
hết người dân ở làng Vũng Ngán và Bích Đầm đều tự gian với diện tích vẻn vẹn 24 mét vuông, không có 
nguyện ủng hộ với tỷ lệ lần lượt là 86% và 94,3%. hàng rào bao quanh. 
Trong khi đó ở Đầm Bấy số người không đóng góp Lăng miếu Vũng Ngán, trước đây cổng lăng 
lên đến 34 người (chiếm 48,6%). nằm ở phía Đông, hướng ra biển, nhưng theo quy 
 Như vậy, trên cơ sở sự thay đổi về niềm tin tín hoạch, khu du lịch Vinpearland xây án ngữ trước 
ngưỡng đã dẫn đến việc thực hành tín ngưỡng ở cư lăng, cổng mới mở ra phía bên cạnh, hướng Bắc. 
dân đảo Hòn Tre hiện nay cũng có chiều hướng suy Cổng cũ chỉ còn dấu tích bình phong xây nối thành 
giảm theo. Mặt khác, kết quả khảo sát cho thấy thực tường rào của lăng. 
hành tín ngưỡng đã có sự khác biệt giữa các làng. So Cách bài trí bên trong các cơ sở thờ tự là việc treo 
với Đầm Bấy nay chủ yếu sinh sống dựa vào các hoạt ảnh, bằng khen hoặc bảng khắc tên những người đã cúng 
động du lịch, thì Vũng Ngán và Bích Đầm – nơi vẫn tiền cho việc xây dựng, trùng tu như ở đình Bích Đầm. 
còn đa số cư dân theo nghề biển việc thực hành tín 2.4. Thay đổi trong lễ vật thờ cúng 
ngưỡng diễn ra thường xuyên và thu hút đông đảo 
 Các lễ cúng truyền thống ở Hòn Tre vẫn được 
người dân hơn. 
 duy trì, bảo lưu nhiều yếu tố cổ truyền, tuy nhiên có 
 Với tư cách là chủ thể tín ngưỡng truyền thống, sự sự gia giảm cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại. Xu 
suy giảm trong niềm tin và thực hành tín ngưỡng của cư hướng chủ đạo hiện nay trong thực hiện các nghi lễ 
dân đảo Hòn Tre sẽ ảnh hưởng đến sự duy trì, bảo tồn cúng tế là đơn giản hóa, thể hiện ở sự thu hẹp về 
tín ngưỡng cộng đồng đã tồn tại lâu đời tại đây. thời gian, thu nhỏ quy mô tổ chức, bỏ bớt một số 
 2.3. Thay đổi trong đối tượng và cơ sở thờ tự tiểu lễ cũng như không cầu kỳ, câu nệ trong lễ vật 
 dâng thần. Do phạm vi bài viết có giới hạn nên 
 Cùng với sự thay đổi trong niềm tin và thực hành 
 chúng tôi chỉ xin đề cập đến những thay đổi trong lễ 
tín ngưỡng, đối tượng thờ cúng của cư dân đảo Hòn 
 vật thờ cúng. 
Tre đã có sự thay đổi. Một số vị thần dần vắng bóng 
trong đời sống tinh thần người dân dù vẫn có cơ sở Trước hết, việc kiêng kỵ đối với những vật phẩm 
 dâng thần trong các buổi lễ không còn nghiêm ngặt 
thờ tự. Là làng có nhiều đình, miếu thờ thần nhất 
 như trước. Tranh các hình nhân thế mạng dùng trong 
trong ba làng khảo sát nhưng hiện nay Bích Đầm chỉ 
 lễ tống ôn, trước do người trong làng vẽ nay mua 
cúng lễ các thần Thành Hoàng, thần Nam Hải, Bà 
 ngoài chợ, không thể hiện đầy đủ ý nghĩa ban đầu. 
Thiên Y Ana, Tiền hiền, Cô bác. Các miếu còn lại 
 Hay như lốt Bà Thủy vẽ hình người phụ nữ nửa trên 
như An Thanh miếu, Dinh ông Lớn, Dinh 4 vị thần 
 là người, nửa dưới là cá, xung quanh là sóng nước 
cai quản hướng, miếu tổ nghề hầu như để hoang. 
 không như trước đây xung quanh là các lực lượng 
Nguyên nhân do các miếu này cách xa làng, không 
 “trợ thủ” của Bà như con đẻn, con vích. 
thuận tiện cho việc đi lại. Trường hợp An Thanh 
 Sự thay đổi trong đồ dâng cúng theo hướng đơn 
miếu trước đây là nơi người dân đến xin các bài 
 giản, tiện dụng. Ở Bích Đầm, trong các lễ cúng trước 
thuốc chữa bệnh nhưng hiện nay cách điều trị này 
 đây, ở mỗi cơ sở thờ tự đều đặt một con gà giò để 
không còn phù hợp nên họ ít đến viếng thăm. 
 coi điềm cát hung cho làng trong năm, nhưng nay 
 Về cơ sở thờ tự, hầu hết các đình, lăng, miếu trên đã bỏ bởi nguồn kinh phí không cho phép. Đồ lễ có 
đảo đã trải qua nhiều lần trùng tu hoặc xây mới đặc đầu heo, thịt heo luộc (năm nào làm lớn thì nguyên 
biệt trong khoảng thời gian từ năm 2010 trở lại đây một con heo quay), hình vẽ người thế mạng, lốt cá 
nên ít nhiều đã mang những nét kiến trúc khác trước. voi, lốt bà Thủy, bà Mộc, bà Ngũ hành, 1 con cua, 4 
 Lăng miếu Đầm Bấy xây lại vào năm 2012. Nếu con tôm, 4 quả trứng vịt. Thời gian gần đây, đồ lễ 
trước đây, đình được xây dựng bằng gỗ, có lầu chỉ có đầu heo, thịt heo luộc, bánh chưng, bánh 
chiêng trống, bình phong thì nay được xây hoàn toàn tráng, lốt bà Thủy. 
 T.T.Q.Anh/ No.18_Oct 2020|p.72-76 
 Sự tiện dụng còn được thể hiện ở việc mua sẵn vận động, đó là gìn giữ tín ngưỡng theo nếp cũ (truyền 
hay đặt làm đối với lễ vật dâng thần. Năm 2015, sau thống) và biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới. 
6 năm làng Vũng Ngán mới tổ chức lễ cầu ngư lớn REFERENCES 
nên đặt nấu 5 bàn với các món ăn mang tính chất tiệc 
 [1] Truong Thi Quoc Anh (2015), Cultural life of 
như nộm, súp, lagu bánh mì, cá hấp, gà bó xôi residents of Hon Tre island, Nha Trang city, Khanh 
 Đặc điểm nói trên khiến cho thời gian cúng lễ Hoa province, Master thesis of Culture, University of 
thay đổi (như lễ tế Cô hồn thay vì tổ chức vào lúc tờ Social Sciences and Humanities (Vietnam National 
mờ sáng, khoảng 4 giờ sáng thì nay tổ chức vào lúc 6 University, Ho Chi Minh City). 
giờ sáng, thậm chí muộn hơn), đồng thời cũng làm [2] Nguyen Duy Bac (2008), The changes of 
giảm những quy chuẩn trong việc lựa chọn lễ vật tế cultural values in building a market economy in 
thần. Bởi thay vì tự đi chọn và mua như trước, hiện Vietnam today, Encyclopedia Publishing House and 
nay đặt làm nên dù đã yêu cầu người bán lựa chọn Institute of Culture, Hanoi. 
cẩn thận theo những tiêu chuẩn, song nhiều lúc vẫn [3] Tran Viet Kinh 2004, Bich Dam Island 
không được như ý, nhưng phải đành chấp nhận. Village, Printed in Ancient Village in Nha Trang. 
 Khanh Hoa Art and Literature Publishing House, 
 3. KẾT LUẬN 
 p.170-173. 
 Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế 
 [4] Le Hong Ly (2002), "Some coastal folklore 
hướng biển, chuyển đổi nghề nghiệp đã tác động features in the market economy", Journal of Folklore, 
mạnh mẽ đến khu vực đảo Hòn Tre, trước hết làm No. 3 (81), p.38-49. 
thay đổi không gian cư trú, tiếp sau là không gian 
 [5] Ngo Duc Thinh (2000), Folklore of coastal 
sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng. residents, Social Science Publishing House, Hanoi. 
 Sự biến đổi tín ngưỡng của cư dân đảo Hòn Tre [6] Nguyen Thi Hai Yen (2002), Socio-economic 
phản ảnh trên nhiều phương diện, từ những yếu tố hữu assessment in Hon Mun conservation area. 
thể đến những yếu tố vô hình. Mặt khác nó diễn ra với Exprimental project of Hon Mun marine protected 
cường độ và quy mô không giống nhau ở các thành tố area, Publishing House of Nha Trang Institute of 
tín ngưỡng và ở các làng trên đảo. Đầu tiên, không gian Oceanography. 
gốc cấu thành tín ngưỡng bị thu hẹp bởi những dự án du [7] Inglehart, Ronald and Wayne E.Baker (2000), 
lịch và sự chuyển dịch hay biến mất của một số cơ sở “Modernization, Cultural Change and Persistence of 
thờ tự tín ngưỡng. Cùng với đó là một số biến đổi khác Traditinonal Values”American Sociological Review, 
diễn ra trong sinh hoạt tín ngưỡng như việc tận dụng Vol.65, No.1. 
tiến bộ khoa học vào hoạt động thờ cúng, hay không [8] Bronislaw Malinowski (1992), Magic, 
quá khắt khe đối với vật phẩm dâng cúng. Bên cạnh đó, Science and Religion, Waveland Press, Illinois: 87. 
niềm tin và thực hành tín ngưỡng cũng suy giảm. [9] Spindler, Louise S. (1977), Culture change 
 and Modernization: Mini-models and Case Studies 
 Quá trình vận động của tín ngưỡng ở cư dân đảo 
 New York, Holt, Rinehart and Winston. 
Hòn Tre cho thấy có sự tồn tại song hành hai xu hướng 
 CHANGES IN THE BELIEFS OF RESIDENTS ON HON TRE ISLAND, NHA TRANG CITY 
Article info Abstract 
 The article mentions the status of beliefs of residents on Hon Tre island with its 
Recieved: changes in the current context. On that basis, we will clarify the changes in beliefs; 
22/6/2020 
 practice of beliefs; gods, places of worship and offerings of worship. At the end of 
Accepted: 
20/9/2020 the report are some conclusions about the process of changing beliefs of the 
 residents on Hon Tre island, besides, it pointed out the parallel existence of two 
 movement trends of beliefs, that is to keep the beliefs according to the old 
Keywords: 
 (traditional) way and change to suit the new situation. 
 Change of beliefs, 
change in culture, 
beliefs 

File đính kèm:

  • pdfbien_doi_trong_tin_nguong_cua_cu_dan_dao_hon_tre_thanh_pho_n.pdf