Biến đổi thị trường lao động tại Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bài viết tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự tác động
của cuộc cách mạng này tới thị trường lao động ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Xu hướng tự
động hóa sản xuất đã và đang tạo ra sự mất cân đối về cung – cầu trên thị trường lao động ở tất cả các
lĩnh vực. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, thách thức lại càng lớn hơn khi các điều kiện
về hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực chưa sẵn sàng để thích ứng và tận dụng cơ hội mà Cách mạng
Công nghiệp lần thứ tư mang đến. Do đó, để tận dụng tốt nhất những cơ hội mà cách mạng lần thứ tư
mang lại, Việt Nam cần triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường lao động và giải quyết
tốt vấn đề việc làm nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu cuộc cách mạng này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi thị trường lao động tại Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư
INH DOANH SỐ 15 (2020) 10 cao của thị trường Việt Nam” (Phan Thế Công & Hồ Thị Mai Sương, 2018). Thứ tư, có sự khác biệt giữa lao động nam và nữ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong sự phát triển của cuộc CMCN lần thứ tư, thời đại tự động hóa hứa hẹn sẽ có sự phân cực mạnh mẽ trong thị trường lao động. Việc làm trong thời gian tới có sự phát triển theo xu hướng phân chia theo công việc trí tuệ sáng tạo và lao động chân tay, hay nói cách khác là sự phân chia thành hai hướng: lao động có kỹ năng lao động cao và lao động có kỹ năng thấp. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng: thị trường lao động và việc làm sẽ chịu ảnh hưởng bởi sự phân cực rõ rệt giữa lao động nam và lao động nữ. Hiện nay, xu hướng thất nghiệp do tự động hóa trong các lĩnh vực mà nam giới chiếm ưu thế như sản xuất, xây dựng và lắp đặt chiếm tỷ trọng cao hơn. Tuy nhiên, nam giới vẫn có xu hướng là nguồn lao động chính trong các ngành liên quan đến khoa học máy tính, toán học và kĩ thuật. Nhu cầu tăng lên đối với các kỹ năng kỹ thuật, đây là những nhóm ngành quan trọng cần phát triển trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khoảng cách việc làm cho lao động nam và nữ sẽ được xét theo các ngành cụ thể. Báo cáo việc làm trong tương lai của Diễn đàn Kinh tế thế giới (2016) đã chỉ ra rằng tỷ lệ lao động nữ trong một số ngành có khả năng tự động hóa cao lại có tỷ lệ lớn. Ví dụ, đối với lao động nữ, việc làm chính của họ ở một số những trung tâm chăm sóc khách hàng, lĩnh vực bán lẻ và hành chính tại các nền kinh tế phát triển cũng nguy cơ tự động hóa cao. Tuy nhiên, cũng có một xuống ngành ít có khả năng thay thế như tâm lý học, huấn luyện viên, tổ chức sự kiện, y tá, giáo viên mầm non, chăm sóc trẻ và một số ngành nghề khác thì lao động nữ lại chiếm ưu thế. Như vậy,“khi các ngành có tỷ trọng nữ cao xảy ra khả năng tự động hóa thì một lượng lớn các lao động nữ sẽ thất nghiệp đồng thời chênh lệch giữa lao động nam và lao động nữ càng tăng lên”(Phan Thế Công & Hồ Thị Mai Sương, 2018). Như vậy, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc CMCN lần thứ tư, vấn đề thị trường lao động và việc làm của Việt Nam cũng như một số nước dự báo sẽ có nhiều biến động về cục diện. Sự thay đổi đối với thị trường lao động tác động mạnh mẽ đến thị trường lao động ở một số cơ sở giáo dục, nơi cung cấp nhân lực kỹ thuật chủ yếu cho nền kinh tế, đòi hỏi phải có những thay đổi về quy mô và cơ cấu giáo viên, thay đổi phương pháp đào tạo hiện đại đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới. Đồng thời, thị trường lao động giá rẻ sẽ dẫn đến tụt hậu, trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao, hệ thống thông tin của nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, vấn đề già hóa dân số và sự tác động mạnh mẽ tới một số ngành kinh tế trụ cột của Việt Nam như nhóm ngành năng lượng, điện tử, dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, nhóm ngành công nghiệp chế tạoDo vậy, để ứng phó với sự tác động của cuộc CMCN lần thứ tư, tận dụng thời cơ nắm bắt những cơ hội và hạn chế đối với thị trường lao động Việt Nam sẽ là bài toán cho Việt Nam phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động. 4.3. Dự báo về sự thay đổi của thị trường lao động Việt Nam dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 gắn liền với những đột phá về công nghệ, internet, kỹ thuật số đã và đang tạo ra sự thay đổi trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực lao động nhất là trong bối cảnh lực lượng lao động của Việt Nam còn thiếu và yếu cả về trình độ và kĩ năng. Mặt khác, một nền công nghiệp có giá trị gia tăng cao hơn, với đổi mới, sáng tạo, và một lực lượng lao động có kỹ năng là hết sức cần thiết để đảm bảo nền kinh tế phát triển. Kinh tế Việt Nam đang dần trong đà hội nhập với những nền kinh tế phát triển với việc hoàn tất nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như CPTPP, FTA với EU, Liên minh kinh tế Á - Âu... và đặc biệt là trong bối cảnh CMCN lần thứ tư với sự xuất hiện của công nghệ cao, máy móc thông minh, robot có trí tuệ nhân tạo đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu nguồn nhân lực và việc làm theo hướng dịch chuyển từ sản xuất thâm dụng lao động sang thâm dụng tri thức và thâm dụng công nghệ. Theo đó, những lĩnh vực dựa vào lao động thủ công, những ngành nghề gắn với quá trình tự động hóa sẽ bị ảnh hưởng. Thậm chí, một số một số ngành nghề sẽ biến mất hoặc bị thay thế bởi máy móc do tác động của cuộc CMCN lần thứ tư. Việt Nam sẽ cần một mô hình tăng trưởng mới để thoát khỏi nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp và để đạt được hiện đại hóa, công nghiệp hóa cũng như tăng trưởng bền vững. Điều này cũng đòi hỏi một thị trường lao động được hiện đại hóa. Một thị trường lao động với những sinh viên tốt nghiệp từ một hệ thống phát triển kỹ năng chất lượng cao được người sử dụng lao động tin tưởng và đầu tư thời gian và nguồn lực. Một thị trường lao động cho phép học tập suốt đời, mọi người đều có thể tiếp cận với hệ thống giáo dục và đào tạo nghề và giáo dục đại học. Đó là một thị trường lao động với cơ chế bảo trợ xã hội toàn dân và có những thiết chế thị trường lao động được điều chỉnh theo những thay đổi của bản thân thị trường lao động đó. Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 15 (2020) 11 Tuy nhiên, ở chiều hướng khác, tích cực hơn, CMCN lần thứ tư sẽ tạo thêm ngành nghề, việc làm mới mà người máy hay robot không thể đáp ứng được. Điều này làm thay đổi xu hướng và nhu cầu tuyển dụng của thị trường việc làm. Theo dự báo, tới năm 2025, có tới 80% công việc sẽ là những công việc mới hơn, phổ biến hơn như: chuyên gia phân tích đám mây, người sáng tạo nội dung trên YouTube, kĩ sư IA, lập tình ứng dụng, kĩ thuật viên điện thoại di động, phân tích web, thiết kế thực tế ảo, nhà khoa học dữ liệu, chuyên gia trải nghiệm người dùng... Mặt khác, những tiến bộ về mặt khoa học, kỹ thuật sẽ tạo ra công cụ đắc lực giúp Việt Nam tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những công nghệ mới được tạo ra trong cuộc CMCN 4.0 cũng sẽ góp phần đặc biệt trong sản xuất cà cải thiện năng suất lao động nước nhà. Điều này đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng, trình độ cao mới có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. 5. Kết luận và khuyến nghị Như vậy, nhằm phát triển thị trường lao động trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhóm tác giả đưa ra một vài khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng lao động của Việt Nam: Thứ nhất, nâng cao trình độ kĩ thuật ở một số lĩnh vực then chốt. Có thể nói, ở Việt Nam, nhu cầu lao động có kỹ thuật cao hiện đang rất lớn bên cạnh lao động giá rẻ là một thế mạnh và điều này sẽ phải thay đổi trong thời gian tới. Do đó, nâng cao trình độ lao động kĩ thuật ở Việt Nam ở những lĩnh vực chủ chốt như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ in 3D là cực kỳ quan trọng. Do vậy, việc ưu tiên nguồn lực để triển khai phát triển nguồn nhân lực công nghệ chất lượng cao, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ, góp phần khả năng tiếp cận, sử dụng công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng một xã hội học tập, nâng cao dân trí. Chính phủ nên có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp thông tin trong việc đọc, tìm kiếm, chuẩn hóa ứng viên công nghệ thông tin. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ sẽ là những người đi đầu trong việc định hướng, tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực mới phù hợp hơn đám ứng được thời đại của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thứ hai, đổi mới và phát triển giáo dục đào tạo. Trong điều kiện mới, việc nâng cao trình độ và kỹ năng cho người học, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động là cấp thiết. Việc đổi mới thể hiện thông qua việc phát triển chương trình, tài liệu học tập thông qua việc tích cực, thường xuyên ra soát các chương trình, tài liệu học liệu để đắp ứng được những kiến thức mới và sự phát triển các ngành nghề được đào tạo phù hợp với sự phát triển của khoa công nghệ. Cùng với đó, cần chú trọng việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, giáo viên. Đội ngũ giảng viên, giáo viên trong thời đại mới phải thường xuyên nghiên cứu khoa học theo hướng ứng dụng và hội nhập quốc tế; đồng thời hình thành những kỹ năng trau dồi những kiến thức mới để có thể đáp ứng đối với việc đào tạo lao động có trình độ, kỹ năng cao; Thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên theo xu hướng tiếp cận công nghệ thông tin mới nhất, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn và nghiên cứu khoa học của giảng viên theo xu hướng hội nhập. Bên cạnh đó, trong việc đổi mới giáo dục đào tạo cần hoàn thiện và phát triển cơ sở vật chất thể hiện thông qua việc đầu tư, nâng cấp phòng học, trung tâm thực hành, xưởng cơ khí, phòng thí nghiệm, đầu tư cơ sở vật chất cho công tác nghiên cứu trong ngành sinh học, công nghệ môi trường. Nghiên cứu và áp dụng các mô hình học tập và dàn xếp với hệ thống thực và ảo nhằm thúc đẩy quá trình đáp ứng với công nghệ mới trong sự phát triển của CMCN lần thứ tư. Đổi mới giáo dục đào tạo đòi hỏi phát triển cùng với sự kết nối với doanh nghiệp. Sự hợp tác này thể hiện thông qua việc hợp tác trao đổi thông tin, hợp tác đào tạo và hỗ trợ tài chính. Thúc đẩy mạnh mẽ việc chuyển đổi từ mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần” sang đào tạo “những gì thị trường sẽ cần”, tức là mô hình gắn kết giữa cơ sở giáo dục – đào tạo với nhu cầu xã hội, đặc biệt là với các doanh nghiệp là các yêu cầu được đặt ra; đồng thời, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp, thúc đẩy trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp nhằm chia sẻ các nguồn lực chung: cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực, quan trọng nhất là rút ngắn thời gian chuyển giao từ kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống. Đổi mới giáo dục đào tạo trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Điều này thể hiện thông qua việc xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, thúc đẩy liên kết đào tạo về giảng dạy với các trường đại học trên thế giới, tranh thủ mọi sự hỗ trợ của các nước trên thế giới trong sự hợp tác và giáo dục. Thứ ba là chú trọng nâng cao chất lượng lao động trong một số ngành liên quan đến tự động hóa. Việc nâng cao chất lượng lao động này thể hiện thông qua việc nâng cao trình độ cán bộ kĩ thuật, quản trị công nghệ và quản lý, quản trị doanh nghiệp đồng thời cần có các chính sách Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 15 (2020) 12 khuyến khích chuyển dịch lao động trình độ cao từ các viện nghiên cứu các trường đại học sang những khu vực doanh nghiệp để có thể ứng dụng trong quá trình lao động sản xuất thực tiễn. Ưu tiên đào tạo và có những chính sách đào tạo liên quan đến một số ngành then chốt này để có thể đáp ứng được sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trên đây là một số giải pháp mang tính chất tham khảo đối với việc cân bằng, phát triển thị trường lao động ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc giáo dục đào tạo, nắm bắt, tận dụng những thành quả của cuộc cách mạng này đem lại để có thể cân bằng thị trường lao động, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo quyền lợi, lợi ích cao nhất cho người lao động. Như vậy, cuộc CMCN lần thứ tư hứa hẹn sẽ mang lại thời cơ cũng như vô vàn thách thức đối với Việt Nam. Bên cạnh những thành quả của cuộc cách mạng này đem lại như tăng năng suất lao động, tạo ra việc làm mới, cải tiến sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranhCuộc cách mạng này cũng đặt ra bài toán khó đối với thị trường lao động của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, ảnh hưởng tới việc làm trong hàng triệu năm tới. Những công nghệ mới đang dần thâm nhập vào quá trình sản xuất, làm thay đổi, phá vỡ cấu trúc thị trường lao động khi sự hình thành công nghệ mới giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học cả trong đời sống, sản xuất. Từ những sự tác động đó, đòi hỏi chúng ta cần có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế sáng tạo và hội nhập. Khi tự động hóa thay thế con người trong một số lĩnh vực của nền kinh tế, người lao động phải thích ứng nhanh nếu không sẽ rơi vào khả năng dư thừa hoặc thất nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Chu Ngọc Anh. (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện tử. Truy cập ngày 27/1/2017, tại trang.org.vn. [2]. Nguyễn Hữu Bắc. (2020). Thị trường lao động và những tác động của cuộc cách mạng 4.0. Tạp chí Lao động & xã hội online. Truy cập ngày 12/01/2021, tại trang dong-va-nhung-tac-dong-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-40-1317418.html. [3]. Bộ Lao động Thương binh - Xã hội. (2018). Báo cáo Quan hệ lao động, Hà Nội. [4]. Cục thông tin KH&CN Quốc gia. (2016). Tổng luận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Hà Nội. [5]. Đinh Đăng Định. (2004). Một số vấn đề lao động, việc làm, và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. [6]. World Economic Forum. (2016). The Future of Jobs, 2016 - Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2016, “Tương lai của Việc Làm”, Truy cập tại [7]. Nguyễn Hoàng Hà. (2018). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và vấn đề việc làm và quan hệ lao động. Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.56-63 [8]. Học viện Hành chính Quốc gia, Trường chính sách công lý Nguyễn Quang Diệu – Singapo, Viện Kinh tế Việt Nam. (2018). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quản trị Nhà nước. Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế, Hà Nội. [9]. Phạm Thị Thu Hiền. (2017). Thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí Con số & Sự kiện, 22/12/2017. [10]. ILO. (2016). Report on “ASEAN in transformation: How technology is changing jobs and enterprises transformation”, - “ASEAN đang chuyển đổi: công nghệ đang thay đổi việc làm và chuyển đổi của doanh nghiệp như thế nào”, Truy cập ngày 12/05/2016, tại [11]. Minh Ngọc. (2019). Thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí Lao động & Xã hội, 05/6/2019. [12]. Nguyễn Thị Thơm, Nguyễn Mạnh Hùng. (2007). Thị trường lao động Việt Nam: thách thức và giải pháp. Tạp chí Lao động và Xã hội, số 310, 2007. [13]. Klaus Schwab. (2018). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb Chính trị Quốc gia - sự thật, Hà Nội. Thông tin tác giả: Nguyễn Thị Thủy - Đơn vị công tác: Trường Đại học Kinh tế & QTKD - Địa chỉ email: ntthuy2020@tueba.edu.vn Ngày nhận bài: 04/9/2020 Ngày nhận bản sửa: 28/9/2020 Ngày duyệt đăng: 30/12/2020
File đính kèm:
- bien_doi_thi_truong_lao_dong_tai_viet_nam_trong_boi_canh_cac.pdf