Biến đổi cấu trúc và chức năng gia đình của người Châu Ro ở Đồng Nai trong bối cảnh công nghiệp hóa
Dưới tác động của quá trình biến đổi kinh tế - xã hội và hội nhập, những biến đổi
diễn ra trong gia đình là một xu hướng tất yếu ài viết đ cập đến những biến
đổi v cấu trúc và chức năng gia đình ở người Châu Ro t i xã Túc Trưng, huyện
Định Quán, tỉnh Đồng Nai Cơ cấu gia đình của người Châu Ro có xu hướng
chuyển từ gia đình nhi u thế hệ thành các gia đình h t nhân; tự do hôn nhân và
sự cởi mở trong việc kết hôn với những tộc người khác và khác tôn giáo ngày
càng phổ biến và được chấp nhận n c nh đó, quá trình cộng cư với người
Kinh, cùng với việc di cư đến các nơi khác, nhất là ở các thành phố lớn để học
tập và làm việc hiện nay đã làm thay đổi các chức năng kinh tế, văn hóa, giáo
dục của gia đình người Châu Ro.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi cấu trúc và chức năng gia đình của người Châu Ro ở Đồng Nai trong bối cảnh công nghiệp hóa
Điều đ được thể hiện ở những đặc điểm sau. Trong gia đình, vợ chồng tôn trọng nhau, không phân biệt khác dân tộc hay tôn giáo, cùng giáo dục, chăm lo cho con cái. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi nấng con cái khôn lớn, xây dựng gia đình riêng khi chúng đến tuổi trưởng thành, hỗ trợ con trong giai đoạn đầu của cuộc sống hôn nhân. Ngược lại, con cái có trách nhiệm quan tâm, giúp đỡ đời sống tinh thần cũng như vật chất khi cha mẹ hoặc ông bà lớn tuổi: “N ở trên Đắk Lắk để làm củi, lâu lâu về đây thăm. Về đây n cũng hay cho tiền bà ngoại” (PVS, nữ, 36 tuổi, xã Túc Trưng). Truyền thống văn h a và bản sắc khác biệt của tộc người bị mai một, ít còn được duy trì, thay vào đ là n t văn h a của tộc người đa số. Phụ nữ Châu Ro ở xã Túc Trưng c áo dài và chị em mặc vào các dịp lễ tết, khi đi lễ nhà thờ, đi dự đám cưới và các dịp lễ khác. Nhiều loại thực phẩm mới được sử dụng để chế biến thức ăn và chế biến m n ăn mà xưa kia họ không có hoặc không ăn do tập quán. Việc sử dụng các loại gia vị nhân tạo như mì chính, bột canh... và sử dụng các loại nước chấm như nước mắm, nước tương trong bữa ăn cũng đã trở nên phổ biến. Nhiều tập tục trong chu kỳ vòng đời của người Châu Ro cũng bị ảnh hưởng của người Kinh. Người dân cũng chú ý đến việc xem giờ khi tổ chức các công việc quan trọng như đám cưới, đám tang, làm nhà. Các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp như TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020 67 cúng thần lúa, thần rừng, thần rẫy đã không còn, thay vào đ các ngày lễ tết của người Kinh. Tiếng phổ thông được giao tiếp rộng rãi, thậm chí một số thanh niên ngày nay không nói được tiếng Châu Ro. Mai một và mất dần bản sắc văn hóa truyền thống (pha tạp, biến đổi, mất dần ngôn ngữ mẹ đẻ) ở các dân tộc ít người đang ngày càng diễn ra ở nhiều chiều cạnh khác nhau. Ngôn ngữ, các vật dụng trong cuộc sống hàng ngày, kiến trúc nhà ở, các lễ nghi trong đời sống xã hội (hôn nhân, tang ma, thờ cúng...) mang bản sắc truyền thống và tính khác biệt của từng tộc người ít còn được duy trì, thay vào đ là n t văn h a của tộc người đa số. 4.3.2. Sự biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình Trước đây, kinh tế của người Châu Ro là kinh tế tự nhiên, tự cấp chủ yếu là làm nương rẫy và nguồn sống dựa vào kết quả mùa màng. Do trồng trọt theo lối du canh, du cư, năng suất thấp nên cuộc sống nghèo nàn và không ổn định. Bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi, hai nghề thủ công chính của người Châu Ro là đan lát (mây, tre, nứa) và dệt vải (hiện nay đã mai một). Ngày nay, người Châu Ro không theo lối sống du canh du cư, mà đã cải tạo rẫy thành đất định canh và phát triển nương rẫy thành ruộng nước, áp dụng các phương pháp canh tác và giống cây trồng với khoa học kỹ thuật tiến bộ, sử dụng nhiều nông cụ sản xuất hiện đại của người Việt (máy cày, máy tuốt lúa, máy cắt cỏ...), áp dụng biện pháp kỹ thuật trong canh tác nông nghiệp và chăn nuôi như sử dụng phân bón hóa học, các loại thuốc diệt cỏ Thời gian gần đây, dưới tác động của cơ chế thị trường, nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tuy vẫn tồn tại nhưng nền kinh tế hàng h a đã thâm nhập và bước đầu nảy sinh. Người Châu Ro đã tham gia vào các hoạt động dịch vụ, buôn bán tại chợ ở địa phương như ấp, xã gần khu vực sinh sống. Họ bán các loại rau, củ, quả, có một vài gia đình mở quán bán bánh kẹo, ăn uống, dịch vụ nấu ăn ở các đám tiệc trong cộng đồng... Việc đầu tư để phát triển sản xuất đã bước đầu được chú trọng. Theo số liệu từ Kết quả đi u tra thực tr ng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2015, thu nhập bình quân đầu người Châu Ro là 1.684,8 ngàn đồng/tháng và chỉ có 8,3% hộ nghèo, 5% hộ cận nghèo (UNDP, Irish Aid và Ủy ban Dân tộc, 2017). Điều này cho thấy đời sống kinh tế của người Châu Ro là ở mức tương đối ổn so với các dân tộc thiểu số khác. Nhưng nếu đo lường dưới lăng kính nghèo đa chiều (giáo dục, y tế, nhà ở, điều kiện sống, tiếp cận thông tin) thì c đến 54,4% hộ gia đình Châu Ro thuộc diện nghèo đa chiều cao hơn nhiều so với mức trung bình chung của 53 dân tộc thiểu số (35,7%). Muốn đảm bảo chức năng kinh tế phát triển, mỗi thành viên của gia đình trong độ tuổi lao động cần có việc làm và thu nhập ổn định. NGUYỄN TẤN DÂN – BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC VÀ CHỨC NĂNG 68 - Chuyển đổi ngh nghiệp Những năm gần đây, quá trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, cùng với chính sách của địa phương, nhiều nhà máy và khu công nghiệp được xây dựng nhiều, diện tích đất nông nghiệp của người dân bị thu hẹp, người dân Châu Ro chuyển sang làm những công việc đa dạng hơn như làm công nhân trong các nhà máy, buôn bán nhỏ, lái xe Sự chuyên biệt h a định chế kinh tế đang diễn ra khi mà hình thức kinh tế của các hộ gia đình đã chuyển đổi từ đơn vị sản xuất sang đơn vị tiêu dùng. “Trước đây bà con ở đây chủ yếu làm nông nghiệp, làm rẫy, khi thời gian rảnh đi làm thuê làm mướn, nhưng hiện nay làm nông nghiệp đem lại thu nhập không cao, nên nhiều người chuyển sang làm công nhân ở các nhà máy, khu công nghiệp dưới khu vực Trảng Bom. Làm công nhân có thu nhập ổn định, làm công nhân có xe đưa rước tận nơi, 5 giờ sáng có xe lên rước chiều đưa về rất thuận lợi” (PVS, nữ, 32 tuổi, xã Túc Trưng). Việc chuyển từ nông nghiệp thuần túy dựa vào thiên nhiên sang nông nghiệp đã c áp dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác và có thêm sự hiện diện của các ngành nghề phi nông nghiệp đã tạo nên một bức tranh đa màu sắc về sinh kế của hộ gia đình người Châu Ro hiện nay. Sự dịch chuyển nghề nghiệp này đã mang lại sự khởi sắc cho đời sống vật chất và tinh thần của tộc người Châu Ro. Mặt khác, cơ cấu nghề nghiệp thay đổi làm cho sự di động xã hội của các cá nhân trong cộng đồng diễn ra năng động, ngày càng có nhiều người có trình độ học vấn cao, lao động tham gia trong công nghiệp hoặc rời khỏi cộng đồng đến các địa phương lân cận tìm kiếm cơ hội ngày càng tăng. Điều này khiến cho chức năng kinh tế của gia đình ngày càng hạn chế, gia đình dần mất đi vai trò của đơn vị sản xuất và vai trò là đơn vị tiêu dùng ngày càng thể hiện r ràng hơn (Ngô Thị Ngọc Anh, 2010). - Phân công lao động theo giới Bức tranh kinh tế thay đổi cũng k o theo sự thay đổi trong phân công lao động theo giới trong gia đình. Tuy cả nam và nữ đều có trách nhiệm lao động và xây dựng gia đình, nhưng vai trò kinh tế của người nam thường được kỳ vọng hơn, nữ giới ở vai trò nội trợ, sinh con và chăm s c con cái. Nhận thức mới này đã dẫn đến sự thay đổi, chế độ phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ mà không gặp phải xung đột trong gia đình. Hiện nay con cái lấy theo họ của cha, chàng trai không đến ở nhà vợ sau đám cưới và cặp vợ chồng trẻ thường sớm được cho ra ở riêng, tạo nên hộ gia đình cá thể. Hơn nữa, với sự tác động của công nghiệp h a, trình độ học vấn được nâng cao, sự chuyển đổi nghề nghiệp đã làm cho vai trò của người phụ nữ có sự thay đổi so với trước đây. Cùng với nam giới, phụ nữ bắt đầu tham gia vào các công việc trong xã hội. Tuy TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020 69 vậy, vai trò chính của phụ nữ trong gia đình vẫn là nội trợ; chăm s c, giáo dục con cái. Người đ ng vai trò quyết định chính về kinh tế thường là nam giới: “Trong gia đình tôi là chủ hộ, nên mọi việc quyết định đến kinh tế gia đình đều do tôi quyết định. Còn việc cơm nước, nội trợ trong gia đình thì người vợ mình phải lo những những đ ” (PVS, nam, 40 tuổi, xã Túc Trưng). “Trong gia đình em thì người chồng là chủ hộ và quyết định về kinh tế gia đình, người vợ lo việc cơm nước, nội trợ và giáo dục con cái” (PVS, nữ, 27 tuổi, xã Túc Trưng). Nhìn chung, ngày nay, trong quá trình hội nhập và phát triển, dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc biến đổi kinh tế là xu hướng tất yếu. Từ kinh tế tự cung tự cấp đến kinh tế tiêu dùng, cũng như hình thức sinh kế thuần túy về nông nghiệp sinh kế của người dân nơi đây đang c những chuyển đổi rất đa dạng từ nông nghiệp cho đến công nghiệp và dịch vụ. Sự chuyển đổi chức năng kinh tế mang lại những biến chuyển trong cơ cấu nghề nghiệp cũng như phân công lao động trong gia đình ở cộng đồng người Châu Ro. 4.3.3. Chức năng giáo dục trong gia đình Giáo dục con cái là chức năng quan trọng đối với đời sống của gia đình. Nhờ có quá trình xã hội hóa giáo dục mà các cá nhân trong gia đình học hỏi được các hành vi ứng xử hợp chuẩn với vị trí mà họ đang nắm giữ, tạo ra những cá nhân với nhân cách phù hợp trong nền văn h a mà họ đang sinh trưởng. Giáo dục của gia đình đ ng vai trò là tạo ra người con hiếu thảo, người công dân có ích cho xã hội. Từ xưa đến nay, văn h a của dân tộc Việt Nam n i chung đều rất chú ý và coi trọng: “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Các bậc cha mẹ người dân tộc Châu Ro, đặc biệt là cha mẹ trẻ đang giáo dục con cái trước sự thay đổi của xã hội truyền thống dưới sự tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa. “Giáo dục con cái hai vợ chồng cùng nhau tham gia, chỉ cho chúng biết các văn h a truyền thống của ông bà để lại cái nào cần được giữ gìn phát huy, dạy cho chúng biết cách cư xử đúng chuẩn mực hợp đạo lý. Nếu không quan tâm giáo dục thì con cái mình sẽ hư, vì hiện nay phim ảnh, internet nhiều trẻ con thường học theo” (PVS, nam, 40 tuổi, BPVS số 3). “Con cái ngày nay cần cho đi học để c trình độ mai mốt còn có nghề nghiệp ổn định... bây giờ mà không trình độ thì không không xin được việc làm, đi làm thuê làm mướn thì cực lắm, rẫy không c để làm. Hai vợ chồng quyết cho con học ít nhất hết lớp 12 sau này có xin làm công nhân cũng dễ dàng” (PVS, nữ, 37 tuổi, xã Túc Trưng). Giáo dục con cái không còn đơn giản khi các yếu tố của công nghiệp đang hiện diện mạnh mẽ trong cộng đồng này như hiện nay. Kinh tế tiêu dùng phát triển cha mẹ phải dành thời gian NGUYỄN TẤN DÂN – BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC VÀ CHỨC NĂNG 70 để kiếm tiền nên thời gian dành cho con cái không nhiều. Nếu như trước đây, người mẹ là người chịu trách nhiệm chính trong việc chăm s c và giáo dục con cái và một số công việc nhà, thì hiện nay, do sự chuyển đổi nghề nghiệp, một số phụ nữ còn đảm trách các công việc tạo ra thu nhập cho gia đình, nên thời gian dành cho việc chăm s c và giáo dục con cái không nhiều như trước nữa. Việc này được chuyển giao những cơ sở giáo dục, nhất là khi người mẹ sau 6 tháng nghỉ thai sản phải quay trở lại doanh nghiệp để làm việc. “Trước đây con cái còn nhỏ thì ở nhà với cha mẹ được cha mẹ chăm lo, nhưng nay đối với các cặp vợ chồng trẻ họ thường để con lại cho ông bà chăm s c hoặc gửi nhà trẻ sáng sớm họ đi làm công nhân ở Trảng Bom tối mới về nên việc dạy dỗ con cái nhờ ông bà và nhà trường là chính” (PVS, nam, 40 tuổi, xã Túc Trưng). Mặt khác, công nghiệp h a đã tạo ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho người dân nơi đây, người trẻ di chuyển đến các thành phố lớn hoặc địa phương lân cận để học tập, làm việc, và rồi họ chọn làm nơi an cư lập nghiệp, chỉ trở về cộng đồng vào các dịp quan trọng của gia đình hoặc của cộng đồng: lễ hội, cưới xin, tang ma... nên nhiều gia đình, cha mẹ, ông bà thiếu sự hỗ trợ chăm s c của con cháu. Có thể con cái vẫn hỗ trợ cha mẹ già về vật chất và tinh thần nhưng những hỗ trợ đ không mang tính chất trực tiếp mà là gián tiếp qua các phương tiện trung gian. Nên việc những cặp vợ chồng lớn tuổi không có con cái ở cùng đang xuất hiện ngày càng nhiều. 5. KẾT LUẬN Gia đình là một thiết chế xã hội và cũng là một nhóm xã hội đ ng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Dù nhìn nhận gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội cơ bản hay với tư cách là một nhóm xã hội thì n đều bao hàm trong đ những sự biển chuyển nhằm thích ứng với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trong bối cảnh công nghiệp hóa. Sự thay đổi đ điều chỉnh nội tại gia đình cho phù hợp với xã hội và đồng thời cũng điều chỉnh xã hội cho phù hợp với điều kiện cụ thể bên ngoài. Từ đây tạo ra những mô hình gia đình mới có khả năng thích ứng tốt hơn với sự biến đổi của xã hội. Xu hướng này mang đậm nét của sự tiến bộ, văn minh phù hợp với xã hội hiện đại, tuy vậy n cũng tồn tại nhiều mặt hạn chế. Nếu bản thân các gia đình không ý thức được những mặt hạn chế này để giữ gìn n t khác biệt trong văn h a của tộc người thì bản sắc văn h a riêng c của tộc người bị mai một và mất đi. Thời kỳ hội nhập người Châu Ro cùng với ổn định và phát triển thì việc giữ gìn bản sắc văn h a dân tộc là cần thiết. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (268) 2020 71 TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Ban Dân tộc học. 1978. Những vấn đ v dân tộc học mi n Nam Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 2. Bilton, Tony (Phạm Thủy Ba dịch), 1993. Nhập môn xã hội học. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 3. Cổng Thông tin điện tử - Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê. 2020. Kết quả đi u tra thu thập thông tin 53 dân tộc thiểu số năm 2019. Hà Nội: Nxb. Thống kê. 4. Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai năm 2018, 2019 và 6 tháng đầu năm 2020. 5. Khoa Nhân học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM. 2013. Nhân học đ i cương. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 6. Lâm Nhân. 2007. “Tập quán cư trú và nhà ở cổ truyền của người Chơ-ro ở Đồng Nai”. T p chí Dân tộc học, số 4. 7. Lâm Nhân. 2009. “Vấn đề giao lưu và biến đổi văn h a của người Châu ro ở Đồng Nai trong gia đoạn hiện nay”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truy n thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập. 8. Nhiều tác giả. 2002. Từ điển bách khoa Việt Nam - tập 2. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 9. Phan Đình Dũng. “Tìm hiểu về cộng đồng cư dân bản địa Châu Ro, Châu Mạ ở Đồng Nai”. ban-dia-chau-ro-chau-ma-o-dhong-nai, truy cập ngày 24/11/2020. 10. Phan Thị Yến Tuyết. 2018. “Chuyển đổi tín ngưỡng, tôn giáo trong các cộng đồng dân tộc thiểu số tại miền Đông Nam Bộ”. T p chí Khoa học xã hội TPHCM, số 2 (234). 11. Trần Hạnh Minh Phương. 2015. “Biến đổi văn h a của các cộng đồng tộc người thiểu số ở Đông Nam Bộ”. T p chí Khoa học - Trường Đại học Trà Vinh, số 19. 12. UNDP, Irish Aid và Ủy ban Dân tộc. 2017. Tổng quan thực tr ng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu số dựa trên kết quả phân tích số liệu đi u tra v thực tr ng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015, thông qua tiểu dự án hỗ trợ giảm nghèo PRPP. 13. Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê. “Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2015”. dan-toc-thieu-so-nam-2015.htm, truy cập ngày 20/11/2020. 14. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. 2019. Nghị Quyết số 196/2019/NQ-HĐND của Hội đồng Nhân dân tỉnh Đồng Nai.
File đính kèm:
- bien_doi_cau_truc_va_chuc_nang_gia_dinh_cua_nguoi_chau_ro_o.pdf