Bàn về triết lý giáo dục và xây dựng triết lý Giáo dục sáng tạo - Nhân văn - Vì người học
Với quan niệm triết lý giáo dục là những tư tưởng giáo dục được đúc kết từ kinh nghiệm
hoặc từ cơ sở lý luận mang tính chỉ dẫn hành động mà chủ thể vận dụng một cách nhất
quán đem lại giá trị thực tiễn trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo và cùng với việc kế thừa
những yếu tố tích cực của các triết lý giáo dục Việt Nam và Thế giới, bài viết đề xuất
Triết lý giáo dục sáng tạo - nhân văn - vì người học. Với nội dung tập trung ở 3 mệnh đề:
1/ Xây dựng nền giáo dục sáng tạo; 2/ Xây dựng nền giáo dục nhân văn (mang tính đặc
thù của xã hội Việt Nam và xu thế thời đại) với điều kiện cơ bản: giáo dục người học có
khả năng tự làm chủ bản thân; 3/ Xây dựng nền giáo dục vì người học. Ba mệnh đề trên
bổ sung, hỗ trợ cho nhau, vừa là công cụ, điều kiện của nhau.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về triết lý giáo dục và xây dựng triết lý Giáo dục sáng tạo - Nhân văn - Vì người học
dẫn hành động mà chủ thể vận dụng một cách nhất quán đem lại giá trị thực tiễn trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Triết lý giáo dục Việt Nam cần thỏa mãn những tiêu chí sau: 1/ Hướng dẫn hành động con người một cách xuyên suốt, nhất quán trong hoạt động giáo dục - đào tạo; 2/ Mang lại hiệu quả thực tiễn giáo dục cao; 3/ Dựa trên cơ sở bản chất của giáo dục; 4/ Phản ánh được tính đặc thù của xã hội Việt Nam và đặt xã hội Việt Nam trong xu thế vận động, phát triển của thời đại. 3. Triết lý giáo dục sáng tạo - nhân văn - vì người học 3.1. Nội dung cơ bản của Triết lý Người viết đề xuất Triết lý giáo dục với 3 mệnh đề sau: Xây dựng nền giáo dục SÁNG TẠO; Xây dựng nền giáo dục NHÂN VĂN (mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam, xu thế thời đại) với điều kiện cơ bản: giáo dục người học có khả năng tự làm chủ bản thân; Xây dựng nền giáo dục VÌ NGƯỜI HỌC. Ba mệnh đề trên bổ sung, hỗ trợ cho nhau, vừa là công cụ, điều kiện của nhau, không thể thiếu được một trong ba nội dung tư tưởng trên. Triết lý giáo dục trên có sự kế thừa tính hợp lý ở các triết lý: 3 John Dewey, Dân chủ và giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, năm 2010, tr.389. 4 John Dewey, Sđd, tr.390. 5 Vũ Cao Đàm, Nghịch lý và lối thoát, NXB Thế giới, Hà Nội, năm 2014, tr.27. 6 Phạm Minh Hạc, Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, năm 2011, tr.17. 7 Phạm Viết Vượng, Giáo dục học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, năm 2014, tr.25. 8 Phạm Viết Vượng, Sđd, tr.26. CHÀO MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 52 - 11/2017 87 Triết lý Giá trị bản thân của Phạm Minh Hạc; Triết lý Phát triển khoa học và giáo dục của Vũ Cao Đàm; Triết lý Giáo dục nhân văn thời Phục hưng và Khai sáng; Triết lý Giáo dục tự nhiên của Rút sô; “Bốn trụ cột của giáo dục” của UNESCO: (1) Học để chung sống; (2) Học để biết; (3) Học để làm; (4) Học để tồn tại. Cơ sở lý luận của Triết lý giáo dục sáng tạo - nhân văn - vì người học: - Cơ sở chung của triết lý ở chỗ: sự tiến hóa của sự sống là ngày càng nâng cao trình độ sinh tồn - phát triển. Đối với con người và xã hội thì xu hướng phát triển là ngày càng nâng cao trình độ tồn tại của đời sống vật chất, đời sống tinh thần của con người, xã hội. Nâng cao trình độ tồn tại về đời sống vật chất ở chỗ: tuổi thọ ngày càng kéo dài, luôn khỏe mạnh, nhu cầu của đời sống vật chất ngày càng được đáp ứng ở mức cao (thức ăn, quần áo, nhà ở, phương tiện đi lại,) phù hợp với trình độ sản xuất và điều kiện tự nhiên, có khả năng tự bảo vệ, bảo vệ dự phòng trước mối nguy hại từ tự nhiên và xã hội, có khả năng tự điều chỉnh về những biến đổi, đột biến của di truyền sinh học, ; nâng cao trình độ tồn tại về đời sống tinh thầnở chỗ: ngày càng được hạnh phúc, ngày càng vươn tới và hoàn thiện chân - thiện - mỹ (nhận thức về thế giới ngày càng sâu sắc, đạo đức ngày càng được nâng cao, ngày càng sáng tạo và thưởng thức cái ĐẸP trong nghệ thuật); từng bước làm chủ bản thân, vượt qua được sự ràng buộc, chi phối của bản năng, của nhu cầu thể xác sinh học, Do vậy, sự phát triển của xã hội bao giờ cũng gắn liền với việc nâng cao trình độ sinh tồn - phát triển của con người - xã hội cả ở phương diện vật chất và tinh thần. Mặt khác, giáo dục - đào tạo là một lĩnh vực quan trọng làm cơ sở, điều kiện để duy trì và nâng cao trình độ sinh tồn - phát triển của cộng đồng ở mức cao hơn. Nên, khi gắn với bối cảnh của Việt Nam và xu thế thời đại hiện nay thì nền giáo dục - đào tạo của Việt Nam cần thực hiện theo triết lý giáo dục sáng tạo - nhân văn - vì người học. Điều này biểu hiện ở chỗ: + Về xây dựng nền giáo dục sáng tạo: Nền giáo dục sáng tạo cần được thiết lập bởi: thứ nhất, bối cảnh Việt Nam và xu thế thời đại (toàn cầu hóa về kinh tế) khiến cho phẩm chất sáng tạo của con người có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của mỗi cá nhân, tổ chức, quốc gia. Việt Nam đã gia nhập nhiều tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới, nếu người Việt Nam không có năng lực sáng tạo cao thì khó có thể trở thành cường quốc trong khu vực và trên thế giới; thứ hai, với trình độ phát triển khoa học - công nghệ hiện nay với công cụ phương tiện nghe, nhìn hiện đại đủ điều kiện để xây dựng nền giáo dục sáng tạo. Hơn nữa, ngày nay dưới sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ hiện đại, việc khai khác các thông tin, tri thức khá thuận lợi mặc dù khối lượng tri thức mà nhân loại đạt được là rất lớn, nên đối với người học điều quan trọng hơn không phải là tích lũy khối lượng kiến thức sâu rộng mà là biết cách khai thác, xử lý thông tin trong việc giải quyết vấn đề đặt ra, đó chính là kỹ năng tư duy sáng tạo. + Về xây dựng nền giáo dục nhân văn với điều kiện cơ bản: giáo dục người học có khả năng tự làm chủ bản thân: Trước hết, người viết định nghĩa “nhân văn”: nhân văn là khái niệm chỉ tính chất tốt đẹp của hành vi, lời nói, thái độ, ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cộng đồng với cộng đồng trong đó hành vi, lời nói, thái độ, ứng xử của cá nhân A(cộng đồng A) với cá nhân B (cộng đồng B) vì trước hết cuộc sống tốt đẹp, nhu cầu chính đáng của cá nhân B, cộng đồng B. Phẩm chất nhân văn là phẩm chất của những người biết nhường nhịn, hy sinh, dành điều lợi, sự tốt đẹp cho người khác. Trong đó, cái lõi của nhân văn là “cái thiện”, là nhân ái. Giáo dục con người hình thành các phẩm chất nhân văn là một trong những yêu cầu không thể thiếu trong một xã hội tiến bộ, văn minh. Với các phẩm chất nhân văn mới thực sự làm cho sự tồn tại người ở đẳng cấp vượt bậc so với động vật. Các triết lý giáo dục nhân văn đã xuất hiện nhiều trong lịch sử như: triết lý giáo dục Khổng tử, triết lý giáo dục Platon, triết lý giáo dục nhân văn thời Phục hưng và Khai sáng. Tuy nhiên, khi xây dựng nền giáo dục nhân văn cho con người Việt Nam cần phải làm nổi bật tính đặc thù của con người và xã hội Việt Nam, thấy được xu thế của thời đại. Bên cạnh đó, để xây dựng được nền giáo dục nhân văn thì cần phải đáp ứng điều kiện cơ bản là: giáo dục người học có khả năng tự làm chủ bản thân. Bởi lẽ: xét ở bản thân mỗi cá nhân thì nguồn gốc của những tính xấu chính là xuất phát từ việc cá nhân đó không làm chủ được CHÀO MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 88 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 52 - 11/2017 bản thân, không chế ngự được bản năng, dục vọng của chính mình. Khi một cá nhân biết kiểm soát xúc cảm, chế ngự được dục vọng sẽ đạt được sự điềm tĩnh, an lạc và nhất là có ý chí, nghị lực mạnh mẽ trong cuộc sống. Làm chủ bản thân còn là con đường quan trọng mà mỗi cá nhân có thể xóa bỏ những tính xấu, sự độc ác, ích kỷ hướng đến điều thiện, khoan dung, độ lượng hay trở thành một người có những phẩm chất nhân văn. Đặc biệt, khi việc làm chủ bản thân trở thành một trong những mục tiêu cơ bản của nền giáo dục thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến xã hội, tạo nên những thế hệ công dân với một nền tảng tinh thần rất tốt đẹp. Ngoài ra, trong quá trình giáo dục, người học có khả năng tự làm chủ cũng có nghĩa là người học có tính tự giác, chủ động, tích cực cao trong học tập và rèn luyện bản thân mình. + Về xây dựng nền giáo dục vì người học: người được giáo dục không phải công cụ, phương tiện hay vật thí nghiệm mà xét về bản chất nhân văn của giáo dục thì giáo dục trước hết là vì do chính nhu cầu, lợi ích chính đáng của người học. Đó là nhu cầu tồn tại và phát triển của người học gắn với bối cảnh xã hội cụ thể, thời đại cụ thể. Cho nên, nội dung, chương trình giáo dục phải trước hết vì bản thân lợi ích của người học, vì tương lai tươi sáng của người học. Tất nhiên, đảm bảo lợi ích của người học cần gắn với lợi ích của xã hội, của dân tộc và của nhân loại nói chung. 3.2. Triển khai triết lý giáo dục sáng tạo - nhân văn - vì người học (1) Xây dựng nền giáo dục sáng tạo là xây dựng nền giáo dục trong quy mô tất cả các cấp học với việc hình thành năng lực sáng tạo ở người học từ thấp lên cao bằng việc: 1/ Thiết lập môi trường giáo dục khuyến khích, tạo điều kiện cho việc hình thành, phát huy, phát triển năng lực sáng tạo ở người học; 2/ Người học được trang bị tri thức và kỹ năng của Sáng tạo học, Phương pháp luận sáng tạo từ đơn giản đến phức tạp phù hợp với trình độ của cấp học, lứa tuổi, vùng miền; 3/ Nội dung các môn học được soạn theo hướng kích thích tư duy sáng tạo với những câu hỏi sáng tạo phù hợp với trình độ của người học; 4/ Giáo viên, giảng viên: truyền cảm hứng sáng tạo, đam mê sáng tạo và gợi mở tư duy sáng tạo cho người học ở những môn học phù hợp; 5/ Tri thức, kỹ năng, công nghệ truyền cho người học với quan điểm: mọi tri thức, kỹ năng, công nghệ được truyền dạy đều tồn tại những hạn chế, thiếu sót, chưa đầy đủ. 6/ Tri thức, kỹ năng, công nghệ được truyền cho người học ở mức tinh hoa nhất và cho người học tiếp cận, học tập, nghiên cứu những tác phẩm kinh điển ở các lĩnh vực với mức độ và hình thức khác nhau. 7/ Đưa các câu hỏi sáng tạo vào trong thi cử dưới hình thức khuyến khích (điểm thưởng) và bắt buộc trong những trường hợp cụ thể. (2) Xây dựng nền giáo dục nhân văn với điều kiện cơ bản: giáo dục người học có khả năng tự làm chủ bản thân: là xây dựng nền giáo dục ở quy mô các cấp học hướng đến việc hình thành ở người học những phẩm chất nhân văn mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam và xu hướng thời đại. Mặt khác, giáo dục cho người học biết khắc phục khó khăn của bản thân (có ý chí và nghị lực cao), điềm đạm, từng bước biết kiểm soát và làm chủ bản thân. - Ở bậc học mầm non, tiểu học và phổ thông cơ sở: + Cần hình thành ở học sinh những phẩm chất nhân văn quan trọng gồm: nhân ái, hiếu thảo với cha mẹ, yêu nước, khoan dung, khiêm tốn, có ý thức trách nhiệm về những vấn đề chung của toàn cầu (về sinh thái, dịch bệnh, an ninh,...). + Học sinh được truyền thụ những chuẩn mực nhân văn trong đời sống thường ngày: những quy tắc giao tiếp, ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng; những quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của cha mẹ, con cái, anh em trong gia đình, những chuẩn mực trong quan hệ bạn bè. + Giáo dục học sinh tính tự giác, chủ động trong học tập và lao động trong sinh hoạt thường ngày, rèn cho học sinh tính kiên nhẫn, từng bước chịu đựng khó khăn, bước đầu nhận biết và rèn luyện kỹ năng kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân. - Ở bậc phổ thông trung học và đại học: + Người học được truyền thụ, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, những nội dung quan trọng về nhân văn được học tập, nghiên cứu dưới góc độ lý luận. + Hình thành ở người học kỹ năng kiểm soát cảm xúc, hình vi của bản thân ở mức cao. Việc hình thành các phẩm chất nhân văn ở người học cần gắn liền với tấm gương của các nhân vật lịch sử, gắn với những tình huống thực tế để rèn luyện. (3) Xây dựng nền giáo dục vì người học là xây dựng nền giáo dục ở tất cả các cấp học với nội dung, chương trình, thi cử hướng đến phục vụ lợi ích của người học, vì sự tồn tại, hoàn thiện, phát triển của chính người học gắn với bối cảnh của xã hội Việt Nam và thời đại, chẳng hạn: CHÀO MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 52 - 11/2017 89 - Giáo dục mầm non và tiểu học hình thành phẩm chất ở người học như: vệ sinh thân thể, biết cách phòng tránh bệnh, biết cách phòng ngừa những rủi ro tai nạn, học sinh được học về luật giao thông, được học bơi, biết tự bảo vệ trước nguy cơ an ninh,... - Giáo dục phổ thông và đại học hình thành phẩm chất ở người học như: cách phòng ngừa bệnh lây truyền qua đường tình dục, hiểu biết về tình yêu và cách gìn giữ hạnh phúc gia đình. Các em cần phải biết những luật căn bản liên quan trực tiếp đến sinh hoạt xã hội, luật về hình sự, dân sự (hôn nhân gia đình, hoạt động kinh tế), - Nội dung giáo dục bám sát vào yêu cầu của xã hội để cung cấp cho người học kiến thức, kỹ năng đảm bảo hoạt động xã hội hiệu quả như: năng lực về ngoại ngữ, tin học, nhất là đảm bảo chương trình học gắn với nhu cầu của thực tiễn nghề nghiệp, nghề nghiệp chuyên môn (ra trường đảm bảo có việc làm và làm được việc), Để đảm bảo triết lý giáo dục sáng tạo - nhân văn - vì người học được phát huy cần có sự kết hợp các quan điểm lý luận giáo dục khác, bao gồm: Về quản lý giáo dục theo phương châm: nhà nước quản lý giáo dục ở cấp vĩ mô, nâng cao tính tự chủ, sáng tạo ở các tổ chức giáo dục (Vũ Cao Đàm). Phương pháp giáo dục: sử dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều phương pháp giáo dục trong đó trọng tâm: tạo môi trường, điều kiện, cơ chế để người học tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo với niềm vui, sự đam mê. Về thi cử: sử dụng linh hoạt nhiều hình thức thi, kiểu thi phù hợp với từng môn học và từng đối tượng nhưng chú trọng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực sáng tạo và sự thành thạo kỹ năng của người học. Hình thành các trung tâm khảo thí từ bậc tiểu học trở nên, tạo cơ chế linh hoạt để người học tự do thi trong bất cứ thời điểm nào và ở hầu hết các môn học. Việc thiết kế chương trình và nội dung giáo dục: dựa trên đặc điểm, quy luật tâm sinh lý lứa tuổi (triết lý giáo dục tự nhiên của Rút sô), đi từ thấp lên cao, có mối liên hệ gắn kết giữa các cấp học với mục đích, mục tiêu, bước đi rõ ràng, cụ thể tạo nên một thể thống nhất. 4. Kết luận Như vậy, triết lý giáo dục là những tư tưởng giáo dục được đúc kết từ kinh nghiệm hoặc từ cơ sở lý luận mang tính chỉ dẫn hành động mà chủ thể vận dụng một cách nhất quán đem lại giá trị thực tiễn trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Từ việc kế thừa những yếu tố tích cực của các triết lý giáo dục Việt Nam và thế giới và trong bối cảnh nước ta đang tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục - đào tạo, người viết đề xuất Triết lý giáo dục sáng tạo - nhân văn - vì người học. Với nội dung tập trung ở ba mệnh đề: 1/ Xây dựng nền giáo dục sáng tạo; 2/ Xây dựng nền giáo dục nhân văn (mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam, xu thế thời đại) với điều kiện cơ bản: giáo dục người học đi đến tự làm chủ bản thân; 3/ Xây dựng nền giáo dục vì người học. Ba mệnh đề trên bổ sung, hỗ trợ cho nhau, vừa là công cụ, điều kiện của nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. John Dewey, Dân chủ và giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, năm 2010. [2]. William Duggan, Trực giác chiến lược, Nguyễn Kim Thi dịch, NXB Lao động, Hà Nội, năm 2010. [3]. Vũ Cao Đàm, Nghịch lý và lối thoát, NXB Thế giới, Hà Nội, năm 2014. [4]. Phạm Minh Hạc, Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, năm 2011. [5]. Phạm Văn Linh (chủ biên), Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam: Thời cơ, thách thức và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2014. [6]. Jean Jacques Rousseau, Émile hay là về giáo dục, Lê Hồng Sâm và Trần Quốc Dương dịch, NXB Tri thức, Hà Nội, năm 2010. [7]. Hoàng Tụy, Giáo dục: Xin cho tôi nói thẳng, NXB Tri thức, Hà Nội, năm 2011. Ngày nhận bài: 10/10/2017 Ngày phản biện: 01/11/2017 Ngày duyệt đăng: 06/11/2017
File đính kèm:
- ban_ve_triet_ly_giao_duc_va_xay_dung_triet_ly_giao_duc_sang.pdf