Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin

Một thời gian ngắn sau khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nước Nga Xô Viết rơi vào

hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng ấy, Lênin đã ban hành chính sách

kinh tế mới - NEP. Ban đầu, chính sách ấy vấp phải rất nhiều sự hoài nghi của các thành viên trong

đảng cầm quyền song thực tiễn đã chứng minh tính đúng đắn và kịp thời của nó. Gần một thế kỷ đã trôi

qua nhưng những giá trị cốt lõi của NEP vẫn còn nguyên giá trị. Ở bài viết này, tác giả bàn về một số

vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin.

Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin trang 1

Trang 1

Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin trang 2

Trang 2

Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin trang 3

Trang 3

Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin trang 4

Trang 4

Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 8700
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin

Bàn về một số vấn đề có tính phương pháp luận trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin
 nghiệp phát triển. 
Sau khi giao nộp phần thuế cho Nhà nước, nông 
dân được toàn quyền sử dụng số dư thừa, kể cả tự 
do bán ra thị trường. 
Công nghiệp: nhà nước tập trung lực lượng 
và phương tiện vào việc khôi phục và phát triển 
những ngành công nghiệp nặng; những xí nghiệp 
nhỏ trước đây bị quốc hữu hóa, nay cho tư nhân 
thuê lại để kinh doanh tự do (chủ yếu là xí nghiệp 
sản xuất hàng tiêu dùng), khuyến khích, kêu gọi tư 
bản nước ngoài đầu tư kinh doanh ở Nga; Nhà nước 
nắm các mạch máu kinh tế: công nghiệp, giao thông 
vận tải, ngân hàng, ngoại thương Chấn chỉnh 
cũng như tổ chức lại việc quản lý sản xuất công 
nghiệp, cải tiến chế độ tiền lương, phần lớn các 
xí nghiệp chuyển sang chế độ hoạch toán kinh tế. 
Thương nghiệp và tiền tệ: tư nhân được tự 
do buôn bán và trao đổi, phát triển thương nghiệp, 
khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ, quan hệ buôn 
bán giữa thành thị và nông thôn; tiến hành cải cách 
tiền tệ, phát hành đồng Rúp mới
Thực chất của chính sách kinh tế mới là 
chuyển từ nền kinh tế mà nhà nước nắm độc quyền 
về mọi mặt, dựa trên cơ sở cưỡng bức lao động, 
trưng thu và cung cấp sản phẩm theo kiểu “cộng sản 
thời chiến” (do hoàn cảnh có chiến tranh) sang một 
nền kinh tế hàng hóa có sự điều tiết của nhà nước; 
công nhận sự tồn tại và phát triển của nhiều thành 
phần kinh tế khác nhau (trong một thời gian nhất 
định); sử dụng vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm của 
tư bản trong và ngoài nước để khôi phục sản xuất, 
ổn định tình hình, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Kết quả mang lại từ việc thực thi chính sách 
NEP là câu trả lời đầy đủ nhất cho những ai còn hoài 
nghi về nó khi mới bắt đầu. Đến cuối năm 1922, 
Liên Xô đã thoát khỏi nạn đói và đến năm 1925, sản 
lượng nông nghiệp đã vượt mức trước chiến tranh, 
lương thực cho thành thị được đáp ứng đầy đủ, cung 
cấp 87% sản phẩm cho nhu cầu toàn dân; ngành đại 
công nghiệp được phục hồi. Tổng sản lượng công 
nghiệp năm 1925 so với năm 1913 đạt 75,5% và 
đến năm 1926 thì khôi phục được 100%. Điện khí 
hóa tiến hành có hiệu quả, đúng kế hoạch, ngành 
điện và cơ khí chế tạo vượt mức trước chiến tranh, 
nhiều xí nghiệp công nghiệp nhẹ và công nghiệp 
thực phẩm đã đạt và vượt mức trước chiến tranh. 
Thương nghiệp được tăng cường mạnh mẽ, củng 
cố, mở rộng quan hệ thương mại với hơn 40 nước. 
Ngân sách nhà nước đã được củng cố, năm 1925 - 
1926 ngân sách nhà nước tăng lên gần 5 lần so với 
năm 1922 - 1923. Giá trị đồng Rúp đã được nâng 
lên đáng kể, tốc độ khôi phục kinh tế còn nhanh 
hơn Đức, Anh, không thua kém Pháp (dù Pháp có 
lợi thế từ tiền bồi thường chiến tranh). Đời sống 
nhân dân được cải thiện rõ rệt, chính trị ổn định 
2.2.2. Một số vấn đề có tính phương pháp 
luận của NEP
Nhìn lại NEP sau gần một thế kỷ, vận dụng 
109
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện 
nay ở nước ta, có thể khẳng định rằng, tư tưởng từ 
chính sách ấy vẫn thể hiện đầy đủ giá trị của nó. 
Thứ nhất, luôn đề cao vai trò của thực tiễn 
như là nguyên tắc nhận thức có tính bất dịch trong 
mọi hoàn cảnh. 
Triết học Mác chỉ rõ, thực tiễn là cơ sở, nguồn 
gốc, động lực và tiêu chuẩn của nhận thức chân lý. 
Mọi quan điểm, đường lối, chính sách, kế hoạch 
đều phải gắn với thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước 
đo. Thiếu nguyên tắc này hoặc là kinh viện thuần 
túy hoặc là kinh nghiệm chủ nghĩa và giáo điều 
máy móc Trong Bàn về thuế lương thực, V. I. 
Lênin viết: “nghiên cứu vấn đề kinh tế nước Nga, 
không một ai có thể phủ nhận tính chất quá độ của 
nền kinh tế ấy. Danh từ “nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Xô Viết” có nghĩa là Chính quyền Xô Viết 
quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa 
xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là thừa nhận 
chế độ kinh tế hiện nay là chế độ xã hội chủ nghĩa” 
[6, tr. 248]. Cơ sở vật chất của nhà nước Nga Xô 
Viết khi ấy chưa thể đạt được và hoàn toàn không 
phải là xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó chỉ là thời kỳ 
quá độ, thời kỳ mà nếu không có những quan hệ 
với thế giới thì không tồn tại được, và trong điều 
kiện khi đó, nó “phải gắn liền sự tồn tại của bản 
thân mình với những quan hệ tư bản chủ nghĩa” 
[6, tr. 216]. Vận dụng vào kinh tế - Người chỉ ra 
rằng - trong chế độ hiện nay có những thành phần, 
những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản 
và chủ nghĩa xã hội. Đó là một sự cần thiết mang 
tính tất yếu, khách quan. Kinh tế nhiều thành phần 
là nét đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ. Đầu thế kỷ 
XX, ở nước Nga có những thành phần kinh tế sau:
9 Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng (phần lớn 
có tính chất tự nhiên);
9 Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm 
đại đa số nông dân bán lúa mì);
9 Kinh tế tư bản tư nhân;
9 Kinh tế tư bản nhà nước;
9 Kinh tế xã hội chủ nghĩa. 
Tư duy biện chứng giúp Người nhận ra, chỉ 
đạo (và đòi hỏi ở bản thân những đảng viên cộng 
sản - TG) phải nhận thức được rằng quá trình cải 
tạo xã hội xã hội chủ nghĩa không thể duy ý chí, nôn 
nóng xóa bỏ các thành phần kinh tế không mang 
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà phải tuyệt đối 
tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp 
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cần 
phải thông qua những bước trung gian và những 
hình thức quá độ. Đó là “mệnh lệnh” từ thực tiễn 
mà những người cộng sản không được phép bỏ qua, 
không được tự hạn chế ở chỗ đem chủ nghĩa tư bản 
đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội, 
vì như vậy là cách nhìn nhận siêu hình, máy móc. 
Thứ hai, linh hoạt trong nhận thức về vai trò 
của các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa để 
phục vụ cho mục tiêu phát triển đất nước. 
Luận điểm cốt lõi, xuyên suốt, mang tính 
nguyên tắc của V. I. Lênin về kinh tế tư nhân: kinh 
tế tư nhân đang hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa 
tư bản. Tuy nhiên, với NEP, Người lại tạo điều kiện 
để thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà 
nước tồn tại, phát triển bởi nó không phải là kẻ thù 
của chủ nghĩa xã hội nếu biết đặt nó dưới sự quản 
lý chặt chẽ của nhân dân. Bằng ví dụ cụ thể về tệ 
đầu cơ, Lênin chỉ ra bọn tiểu tư hữu mới là mầm 
mống của mọi tai họa. Kinh tế tư nhân, trái lại là 
thành phần giúp cho kinh tế đất nước phát triển cơ 
sở vật chất kỹ thuật. Thuế lương thực tạo tiền đề 
hình thành nền sản xuất hàng hóa thông qua trao 
đổi và thị trường. Thực tế cho thấy, kết quả trong 
năm đầu tiên khi áp dụng NEP, lượng sản phẩm thu 
được từ thuế lương thực thấp hơn việc trưng thu 
lương thực gần hai lần (240 triệu so với 423 triệu 
pút), nghĩa là nguồn thu của nhà nước bị ảnh hưởng 
nhưng điều lớn lao đạt được là thái độ người dân 
và tinh thần toàn xã hội ngày một cải thiện.
Về thành phần kinh tế tư bản nhà nước, V. 
I. Lênin lý giải sự cần thiết phải có thành phần 
kinh tế ấy vì đất nước muốn tăng ngay lập tức qui 
mô sản phẩm nhưng “chúng ta không đủ sức làm 
được, chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực 
tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi 
vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là 
không thể tránh khỏi” [6, tr. 276]. Người coi việc 
cho phép nó tồn tại là một bước tiến lớn (mặc dù 
phải trả một khoản phí nhưng đó là “khoản học phí” 
đáng giá, có lợi cho công nhân). Bởi vì, việc chiến 
thắng được tình trạng hỗn độn, suy sụp về kinh tế 
và hiện tượng lỏng lẻo là cái quan trọng hơn hết. 
Bằng hình thức tô nhượng, thông qua cam kết (10 
điểm cơ bản) giữa nhà nước và nhà tư bản, họ phải 
110
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
“tổ chức, hoàn thiện sản xuất, cải thiện đời sống 
công nhân” và nhận lại phần lãi sau khi đã trả 
cho nhà nước một phần sản phẩm. Mặc dù, ngay 
trong nội bộ Đảng vẫn còn những ý kiến ngờ vực 
về tính nguy hiểm, khả năng chệch hướng song V. 
I. Lênin vẫn kiên định vì chúng ta có công cụ là 
chính quyền nằm trong tay nhân dân với sự “kiểm 
soát và kiểm kê chặt chẽ”. Kinh tế tư bản nhà nước 
là “sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa 
xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc 
thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc 
thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có nấc 
thang nào ở giữa cả” [6, tr. 256]. Ở đây, tinh thần 
biện chứng thể hiện rất rõ. Trong điều kiện đi lên 
chủ nghĩa xã hội của một nước có nền kinh tế tiểu 
nông, lạc hậu thì biện chứng của sự phát triển xã 
hội là “chúng ta cần phải chấp nhận cái xấu nhiều 
hơn để đạt được cái xấu ít hơn”. 
Vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, rõ ràng, 
nhận thức của Đảng ta về thành phần kinh tế tư nhân 
đã có sự thay đổi, thoáng/phù hợp hơn với thực tiễn 
phát triển kinh tế cũng như sự đóng góp của thành 
phần kinh tế này đối với đất nước (chiếm khoảng 
40% GDP). Thật vậy, tại Đại hội X (4-2006) của 
Đảng, kinh tế tư nhân chính thức được xác nhận là 
một thành phần kinh tế trên cơ sở hợp nhất hai thành 
phần kinh tế: cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân và 
được xác định rõ: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan 
trọng, là một trong những động lực của nền kinh 
tế” [1, tr. 83]. Đại hội đã thông qua một quyết định 
rất quan trọng là cho phép đảng viên được làm kinh 
tế tư nhân. Vai trò của kinh tế tư nhân tiếp tục được 
khẳng định tại Đại hội XI (01-2011) với luận điểm: 
“Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của 
nền kinh tế” [2, tr. 89]. Sự phát triển mới về nhận 
thức của Đảng đối với kinh tế tư nhân tại Đại hội 
XII (01-2016) là, chính thức xác nhận: “Hoàn thiện 
cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát 
triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và 
lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực quan trọng của 
nền kinh tế” [3, tr. 107-108]. Mới đây nhất, tại Hội 
nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng 
khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về 
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực 
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa đã nêu rõ: “Kinh tế tư nhân là một 
động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế 
nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân 
là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. 
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư 
nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc 
độ tăng trưởng cao cả về số lượng, qui mô, chất 
lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP” [4, tr. 95].
Thứ ba, xác định đúng vai trò quyết định của 
nông dân đặc biệt là đối với những nước có nền 
kinh tế tiểu nông, nông dân chiếm đại đa số, chú 
trọng liên minh công nông trong quá trình định 
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Trong Chính sách kinh tế mới, V. I. Lênin cho 
rằng, với một nền kinh tế tiểu nông, lạc hậu phải bắt 
đầu từ nông dân vì muốn cải thiện đời sống công 
nhân (và điều đó cũng đồng nghĩa với việc chuẩn 
bị cho việc hướng đến nền đại công nghiệp xã hội 
chủ nghĩa - TG) thì phải có bánh mì và nhiên liệu. 
Không phải giai cấp nào khác mà chính công - nông 
là động lực của cách mạng. Do vậy “vấn đề cấp 
thiết, mấu chốt nhất hiện nay là dùng những biện 
pháp có thể để phục hồi ngay những lực lượng sản 
xuất của kinh tế nông dân. Phải bắt đầu từ nông 
dân” [6, tr. 243]. Ngoài ra, trong điều kiện của nước 
Nga rộng lớn, chăm lo lợi ích của nông dân cũng 
là cách thức hữu hiệu để an dân, kéo họ tránh xa 
những dụ dỗ thường trực từ bọn phản cách mạng. 
Mặc khác, ta biết rằng, công nghiệp và nông nghiệp 
là hai ngành sản xuất chủ yếu của nền kinh tế quốc 
dân đối với những nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã 
hội từ một nền kinh tế tiểu nông. Việc đặt vấn đề 
đưa phát triển nông nghiệp lên hàng đầu, tạo điều 
kiện cung cấp lúa mì cho công nhân và nguyên 
liệu để phát triển công nghiệp hoàn toàn do thực 
tiễn chi phối. Ngược lại, sự phát triển công nghiệp 
phải hướng vào phục vụ nông nghiệp nhằm đưa 
nền nông nghiệp ấy thoát khỏi tính manh mún, lạc 
hậu. Đó là cách thức để củng cố vững chắc khối 
liên minh công - nông. 
3. Kết luận
Sinh thời, V. I. Lênin từng lưu ý rằng: khuyết 
điểm chẳng qua đơn thuần chỉ là ưu điểm duy trì 
quá lâu khi hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi nhiều. 
Tư tưởng biện chứng ấy mặc cho thời gian vẫn còn 
nguyên giá trị. Thực tiễn là trường học sinh động 
nhất; do đó, mọi quan điểm, quyết sách mà một 
Đảng cầm quyền ban hành cần phải xuất phát từ 
đó và xoay quanh nó; cũng như cần đổi thay cho 
111
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 39 (08-2019)
phù hợp khi bản thân thực tiễn đã thay đổi. Gần 
một thế kỷ đã trôi qua nhưng rõ ràng sự ra đời của 
chính sách kinh tế mới thay thế chính sách cộng 
sản thời chiến cùng những tư tưởng cốt lõi của nó 
vẫn luôn là bài học vô giá trong thời kỳ quá độ định 
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. 
Nhìn lại lịch sử cùng vài ý kiến trao đổi thêm 
về một số vấn đề có tính phương pháp luận rút ra 
từ chính sách kinh tế mới nhân dịp vừa kỷ niệm 
100 năm thành công của cách mạng Tháng Mười 
Nga như là sự mặc tưởng về một sự kiện được coi 
là tiếng bom của nhân loại trong thế kỷ XX./. 
Tài liệu tham khảo
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng 
Trung ương Đảng, Hà Nội. 
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương 
khóa XII (Lưu hành nội bộ). Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Đức Độ (2010), “Chính sách kinh tế mới của V. I. Lê-nin và sự vận dụng vào công 
cuộc đổi mới ở Việt Nam”, Tạp chí cộng sản online, 
Traodoi/2010/2462/Chinh-sach-kinh-te-moi-cua-VI-Lenin-va-su-van-dung.aspx.
[6]. V. I. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 43, NXB Tiến bộ Mát-cơ-va.
[7]. V. I. Lênin (1981), Những năm đầu của thời kỳ quá độ ở Liên Xô, NXB Sự thật, Hà Nội. 
[8]. Vũ Trọng Dung (2015), Chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin với chính sách phát triển nền 
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[9]. Giáo trình triết học Mác - Lênin (2004), Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình 
quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
ON SOME METHODOLOGICAL ISSUES IN V. I. LENIN’S NEP
Summary
Shortly after the success of the Russian October revolution, Soviet Russia fell into extremely 
diffi cult circumstance. To get the country out of that circumstance, Lenin issued a new economic policy 
- NEP. At fi rst, that policy faced a lot of skepticism from members of the ruling party, but it then proved 
its correctness and timeliness. Nearly a century has passed but the core values of NEP remain valid. In 
this article, the author discusses some methodological issues in the new economic policy of V. I. Lenin.
Keywords: Policy, economy, food tax.
Ngày nhận bài: 05/9/2017; Ngày nhận lại: 03/6/2019; Ngày duyệt đăng: 15/8/2019.

File đính kèm:

  • pdfban_ve_mot_so_van_de_co_tinh_phuong_phap_luan_trong_chinh_sa.pdf