Bàn về “hữu” và “vô” trong lịch sử triết học Trung Quốc
Triết học Trung Quốc bao hàm những nội dung khá phong phú cả về vũ trụ luận, tri thức
luận, nhân sinh luận, chính trị luận đã thu hút được rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Bài viết
này bàn về “Hữu” và “Vô” - cặp phạm trù có ý nghĩa vũ trụ luận quan trọng của triết học Trung
Quốc, được biểu hiện chủ yếu trong tư tưởng của Đạo Gia thời kỳ Tiên Tần và Huyền học thời kỳ
Ngụy - Tấn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về “hữu” và “vô” trong lịch sử triết học Trung Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về “hữu” và “vô” trong lịch sử triết học Trung Quốc
uyền học duy tâm, tôn sùng và tuyệt đối cái “vô” là bản thể của thế giới. Ông nêu ra quan điểm “tự sinh ra tất có hình thể” (tự sinh nhi tất thể hữu), cho rằng vạn vật trong vạn vật tự sinh ra lấy “hữu”, tức lấy vật chất làm bản thể. Theo ông, “đạo” - nguồn gốc của thế giới - là “có” chứ không phải từ “vô” sinh ra. “Vô thì chẳng sinh ra bất cứ cái gì, cho nên cái mới sinh là tự sinh ra đó thôi”[3, tr.583]. Cái “vô” tuyệt đối không thể sinh ra cái “hữu”, vạn vật từ đầu đã là tự sinh, không có bản thể tinh thần, hư vô nào khiến vạn vật sinh ra. Cái vô không có nghĩa là vật chất tiêu biến mất mà chỉ là một trạng thái, là sự mất mát và thiếu sót của cái hữu thôi. Như vậy, sự đầy đủ muốn có thể giảm, nhưng không thể chấm dứt cái có; cái gì quá mức thì có thể tiết chế, nhưng không thể gọi là quý vô Do hình khí cái có được chứng nghiệm, nên ý nghĩa của cái trống không khó kiểm chứng. Cái hoàn toàn không ấy, không thể do cái gì sinh ra được. Cho nên cái sinh ra đầu tiên là nó tự sinh. Tự sinh thì tất lấy cái “có” làm thể, vậy hễ truất phế cái “có” là sự sinh bị sa sút (không phát triển được). Sự sinh đã lấy cái “có” làm phần việc mình (chỉ sinh ra cái có), thì hư vô là cái bị cái “có” phế truất. Cái “không” không thể sinh được cái “có”. Sinh vật thuở đầu tiên là tự sinh và đến lấy cái “có” làm thể. Hư không là cái bị cái “có” “bỏ rơi” không làm thể cho. Phải có cái “có” đã, rồi sau mới có cái “không”. Do đó cái “không” không phải là nguyên thủy của cái “có”. Ông cho rằng: “hữu” là cơ sở tồn tại của quy luật khách quan của sự vật, hiện tượng trong vũ trụ - “lý”. “Hữu” là cơ sở của vạn vật tồn tại và biến hóa; “lý” trên thế giới đều liên quan đến “lý” của cái “có”, “tình” của loài người liên quan đến “tình” của cái VõVăn Dũng 31 “có”, không có “lý” của “hư vô tuyệt đối” và “tình” siêu thoát tuyệt đối [3, tr.414]. Cái “có” mới xúc tiến thành được cái có, “hư vô” chẳng lợi ích gì cho người ta cả. Cái “không” vốn không thể sinh ra cái “có”, mà khi cái “có” đã có rồi, cái “không” cũng không có ích gì cho cái “có”; giúp cho cái “có” đều là cái “có”, chứ cái hư vô (cái “không”) kia thì nó có ích gì đâu cho đám sinh vật đã có rồi”. Ông còn chỉ ra một cách sâu sắc rằng: xem thường cái có là hết sức nguy hại. Cái vô hết mức, là cái vô để có thể sinh ra; cho nên sự sinh ra đầu tiên, là tự sinh. Tự sinh cho nên tất hình thể có, thì cái có mất mát mà sinh ra thiếu hụt. Sự sinh ra dùng cái có để tự phân chia thì sự hư không chính là chỗ thiếu hụt của cái có. Vì thế dưỡng cái có biến hóa không phải ở chỗ không sử dụng mà có thể đầy đủ. Cái lý chung của cái có không phải ở chỗ không làm mà có thể tuân theo. Tâm không có sự việc mà tạo ra sự việc ở tâm là do tâm; như vậy không thể lấy việc tạo ra sự việc vì không có sự việc mà gọi tâm là vô. Người thợ không có khí cụ, mà tạo ra khí cụ tất cần ở tâm; như thế không thể lấy việc tạo ra khí cụ vì không có khí cụ, mà gọi người thợ là không có vậy Do đó mà xét, cái có được đều có, thì cái hư vô đâu tăng thêm từ số đông cái có sinh ra. Trương Hoành Cừ cũng không thừa nhận có bản căn nào là bản căn “không”. Chỉ có “có” thôi. Có hình nom thấy được là có, mà không có hình, không nom thấy được cũng không phải là không. Chỉ có khác nhau ở chỗ một đằng thì rõ ràng, một đằng thì sâu kín, chứ không khác nhau ở chỗ có và không. Không có gì, mắt không trông thấy thì bảo là sâu kín; đến khi thành hình, mắt nhìn thấy rõ thì bảo là rõ ràng. Chỉ có khác nhau vì một đằng rõ rằng, một đằng sâu kín, chứ không có sự đối lập, một bên là có một bên là không. Cái “không” thực không hề là một nguyên tố của thế giới bao giờ. Thủ tiêu sự đối lập giữa hữu và vô; và sự thống nhất giữa hai mặt đối lập hữu và vô trong Bất chân không luận [2, tr.34]. Tăng Triệu, trong Bất chân không luận viết: “Vạn vật quả thực vốn có cái vừa khiến nó không tồn tại, vừa khiến nó không phải không tồn tại. Bởi vốn có cái vừa khiến nó không tồn tại, cho nên tuy tồn tại mà chẳng phải là tồn tại. Bởi vốn có cái vừa khiến nó không phải không tồn tại, cho nên tuy không tồn tại mà chẳng phải là không tồn tại, tuy không tồn tại mà chẳng phải không tồn tại, nên cái không (vô) không tuyệt đối hư vô; tuy có mà chẳng phải có, nên cái có chẳng phải cái có thật. Nếu cái có không là thật, cái không di tích, dấu vết, như vậy thì hữu vô tuy tên gọi khác nhau, nhưng là một Cái sỡ dĩ nhiên (vốn dĩ phải thế), giả sử cái có là cái có chân thực, thì cái có vốn là cái có mãi mãi, lẽ nào phải nương nhờ vào nhân duyên rồi sau đó mới có ư? Giả sử kia là cái không chân thực, thì cái không vốn là cái không mãi mãi, lẽ nào lại phải nương vào nhân duyên rồi sau đó mới là không. Nếu cái có không tự có, mà phải nương vào nhân duyên, thì tri thức về cái có không phải là cái có chân thực, cho nên tuy có nhưng không thể gọi là cái có. Sự không phải cái không cũng thế (bất vô giả), cái không thì rõ ràng, bất động, có thể gọi nó là không. Vạn vật nếu không (tồn tại) thì không ứng khởi, nếu khởi lên thì chúng chẳng phải là không (vô). Bởi có nhân duyên nên mới có khởi lên, cho nên chúng không phải là không. Như vậy, vạn pháp quả là có cái khiến chúng không có, nên không thể xem là có Khoahọc xã hội Việt Nam, số 11 - 2019 32 được, đồng thời lại có cái khiến chúng không phải là không, nên không thể xem là không được, tại sao vậy? Nếu ta muốn nói là chúng có thì sự có ấy chẳng phải là sự sinh ra chân thực; nếu ta muốn nói chúng là không, thì các sự vật hiện tượng đã có hình thể. Nhưng hình thể, hiện tượng có thì chẳng phải là không, nhưng không thật không có thực, như vậy nghĩa bất chân không bây giờ đã hiện rõ” [2]. Trình Minh Đạo thì cho rằng, không thể nói là có cái “không” mà cũng không thể nói là không có cái “không”: Nói là có “không” thì thừa chữ có; nói là không “không” thì thừa chữ không. Có và không giống như động và tĩnh. Nói “có và không giống như động và tĩnh”, Minh Đạo có ý bảo rằng: trong cái “có”, có cái “không”; trong cái “không”, có cái “có”, cũng như trong cái động có cái tĩnh, trong cái tĩnh, có cái động vậy. Trang Tử thì rất chú ý đến điểm thống nhất giữa không và có. Ông rằng: có cũng có thể coi là không, mà không cho là có cũng vẫn được. Không tức là có cái không. Vả lại, theo ông, còn “có cái không không” nữa. Ông nói: “vật có cái “có”, có cái “không”, có cái “chưa có cái không”, có cái “chưa có cái chưa có cái không”; chợt “có”, chợt “không” mà chưa biết “có” với “không” cái nào hẳn là có, cái nào hẳn là không”. Trước cái có là cái không, vậy trước cái không, hẳn là đã có “cái không của cái không”, và trước “cái không của cái không” hẳn lại là đã có “cái không của cái không của cái không”. Có cái không nào mà chẳng bao hàm một cái có. Có và không không thể dứt khoát chia là hai được. Có với không, theo Trang Tử, chỉ là giai đoạn trước, sau trong lịch trình tiến hóa của Đạo và vốn cùng là một thể. Không đâu hẳn là gốc của có. Nếu cho không là gốc của có, thì gốc của không hẳn phải là cái không của cái không. Rồi trước cái không của cái không, tất nhiên lại có cái không nữa làm gốc của cái không của cái không; cứ thế suy ngược lên, có thể nói là không bao giờ cùng. Trang Tử có ý nhận rằng không với có thật ra có chỗ thống nhất. Sách Trang Tử có viết: “Nhân chỗ có của nó (muôn vật) mà coi là có, thì muôn vật không vật nào là không có; nhân chỗ không có của nó mà coi là không thì muôn vật không vật nào là không không” [1, tr.56]. Trong Mặc kinh, cũng có đoạn bàn về “có” và “không” như thế này: “Không, như không có ngựa, thì là có đã, rồi sau mới không. Không, như trường hợp những chỗ khuyết hãm tự nhiên, thì là không, mà không (tự nhiên vốn sẵn không)”. Ý nói: “không” vẫn là do “có”, nhưng cũng có khi “không” không phải là do “có”. Khi nói “không có ngựa” thì cái “không” đó là do cái “có” mà ra, là vì phải có người có ngựa hoặc trước đây mình đã có ngựa, rồi so sánh với người có ngựa đó, hoặc với lúc mình có ngựa đó thì mới có cái nhận xét “không có ngựa”: cái “không” phải là hậu quả của cái “có”? (hoặc là “không” đến sau “có”, hoặc là “không” vì là đối đãi với “có” mà có). Nhưng khi nói chỗ khuyết hãm tự nhiên mà dùng tiếng “không” thì trong trường hợp đó, trạng thái “không” không do ở “có” mà ra, không phải là trước đã có mà bây giờ không, trước đã nguyên lành bằng phẳng (có) mà sau mới sứt mẻ lỗn hổn (không). Hữu vô đều là tính. Trương Tái (1020- 1077) là nhà thiên văn học, nhà triết học nổi tiếng thời Bắc Tống, ông có rất nhiều tác phNm nhưng nổi tiếng nhất là cuốn Chính VõVăn Dũng 33 mông [2, tr.123]. Trong tác phNm này, thiên Càn xưng, viết: “Hữu và vô (có và không), là hư và thực thông suốt làm một, đó là tính vậy; không thể thông làm một, là chưa tận cùng cái tính. Việc ăn uống, tình cảm nam nữ đều là tính, như thế thì cái gì có thể tiêu diệt được? Thế thì có không đều là tính vậy”. Tiếp tục thế giới quan duy vật chủ nghĩa trong quan niệm về “khí” trong triết học Trung Quốc, ông nói: “Biết hư không là “khí” thì hữu vô, Nn hiện, thần hóa, tính mệnh suốt là một, không có hai. Nhưng biết cái tụ tán, xuất, nhập, hình với không hình mà suy ra được đến gốc là biết đạo dịch vậy” [9, tr.543]. Trương Tái đã đả kích mạnh mẽ những quan điểm hoang đường của tín điều Phật giáo cũng như quan điểm của phái Huyền học, cho “hư vô” có thể sinh ra “khí” và vạn vật sinh ra từ vô. Như vậy, cái khí tụ tán đối với thái hư cũng như băng tuyết đối với nước. Biết thái hư là khí thì không có cái vô. Cho nên Thánh nhân nói cùng cực của tính và thiên đạo là cho hết cả ở cái thần của số ba và số năm (thái cực, lưỡng nghi và ngũ hành) chỉ có biến hóa mà thôi. Chư Tử (Lão Tử và Phật giáo) đều là thiển vọng, cho nên mới chia ra hữu vô, thế không phải là cái học cùng lý vậy. Về sau Vương Thuyền Sơn theo thuyết của Trương Hoành Cừ, cho rằng trong thực tế không có cái gì bảo là cái “không” được cả. Ông nói: “Trong thiên hạ quả có cái gì được gọi là cái “không” chăng? Nói rùa không lông, là nói chó (có lông) chứ không phải là nói rùa. Nói thỏ không sừng, là nói nai (có sừng) chứ không phải là nói thỏ” (Tư Vấn Lục) [8, tr.126]. Thế là Thuyền Sơn không chấp nhận, như kiểu Mặc kinh, rằng có cái “không” bản nhiên không, cái “không” độc lập không liên thuộc cái “có”. Theo Thuyền Sơn, cái “không” bao giờ cũng liên thuộc cái “có”. Có “có” rồi mới có “không”. “Không” ở đây là vì “có” ở kia. Chó có lông mà rùa không có, cho nên mới nói rằng: “Rùa không lông”; nai có sừng mà thỏ không có, cho nên mới nói rằng: “Thỏ không sừng”. Nếu như thiên hạ bản lai không có vật gì có lông, thì người ta sẽ không nói: vật này không lông”? Nếu như thiên hạ bản lai không có vật gì có sừng thì người ta sẽ không nói: “Vật kia không sừng. Nói không, tức là trước đã có rồi. Nếu thật là không, thật chưa bao giờ có thì không thể nói được là không. Nhấn mạnh ý đó, Thuyền Sơn còn nói: “Chừng nào không thể bảo được là không, chừng đó mới thật là không, chứ đã có thể nói được là không, thì tất là đã có rồi mà sau mới không có (Tư Vấn Lục) [8, tr.127]. Trong thiên hạ làm gì có cái mà người ta gọi là “không” đó. Có khi ở vật chưa thấy có, mà ở sự thì không phải là không có; có khi ở sự chưa thấy có, mà ở lý thì không phải là không có. Tìm kiếm mà không ra, lười mệt mà không kiếm thì nói là không đấy thôi. Và: “Sáng tỏ là cái gì sáng tỏ, sâu kín là có cái gì sâu kín. Ở nơi cái sâu kín có cái quá tầm mắt, sức tai của ta, cho nên ta không nhìn ra, nghe thấy, chứ không phải về lý, về khí, cái ấy vốn là không có. Học phái Lão trang đối với những cái không trông thấy được, không nghe thấy được thì nói quyết là không có, như vậy là thiển lậu lắm” (Tư Vấn Lục) [8, tr.130] Như vậy, cũng như Trương Hoành Cừ, Vương Thuyền Sơn chủ trương rằng vật chỉ khác nhau ở chỗ một đằng sáng tỏ, một đằng sâu tối, chứ không khác nhau ở chỗ một đằng có một đằng không. “Sáng tỏ” là mắt thấy, tai nghe được; mắt không thấy nỗi, Khoahọc xã hội Việt Nam, số 11 - 2019 34 tai không nghe thấu, thì là sâu tối. Sâu tối không phải là không có. Ngoài ra, Vương Thuyền Sơn còn có thuyết “thể dụng tư hữu” (thể và dụng đều là có) và chủ trương “Vật chất bất diệt” nữa [1, t.1, tr.568]. Ông nói: “Phàm cái “dụng” trong thiên hạ điều là cái có cả. Ta theo cái “dụng” mà biết được rằng cái thể là có, há còn phải ngờ ư? Cái dụng có, để làm nên công hiệu; cái thể có, để làm nên tính tình, thể và dụng đều có và cùng cần dùng lẫn nhau để trở nên thực”. Về vấn đề “Vật chất bất diệt” do vậy, lấy vận trời, tượng vật ra mà nói, mùa xuân, mùa hạ là sinh, là lạ, là duỗi; mùa thu, mùa đông là sát, là đi, là co. Mà sinh khí của mùa thu, mùa đông chứa ngầm ở trong đất, cành lá khô héo mà gốc rễ vẫn tốt tươi, thế là không phải là mùa thu, mùa đông tiêu diệt hết cả mà không còn sót lại một cái gì. Xe củi bốc lửa, cháy hết, thành ngọn lửa, thành khói, thành tro rồi thì cái gì đã là gỗ thì phải trở về với gỗ, cái gì đã là nước lại trở về với nước, cái gì đã là đất lại trở về với đất; có diều là hiện tượng chuyển hóa thầm kín cho nên người không thấy được đó thôi Những cái có hình còn vậy, huống chi những cái un đúc không thấy rõ được hình tượng. Chưa từng có cái gì tháng năm vun vén tích tụ, mà một sớm lại hóa hết không còn tí gì, điều đó thật rõ. Cho nên mới nói là đi, lại, co duỗi, tự tàn, sâu kín, sáng tỏ, chứ không nói là sinh diệt. 4. Kết luận Vạn chất tụ rồi tán, đi rồi lại, chứ không bao giờ nảy thêm ra hoặc mất hẳn đi. Vật chất tồn tại một cách vĩnh cửu. Cái “có” không sinh ra từ cái “không”, cái “có” cũng không bao giờ hóa ra cái “không” được. Cuộc thảo luận về vấn đề “có” và “không” do Lão Tử mở đầu đến Vương Thuyền Sơn kết thúc. Chủ trương của họ Vương thì tương phản với chủ trương của Lão Tử: Lão Tử cho rằng vạn vật đi từ không đến có, hơn là đi từ có đến không. Vương Thuyền Sơn phủ nhận sự tồn tại của cái “không”. Trên căn bản cái “không” không hề bao giờ từng có trên thế giới này cả. Nhưng chính cuộc tranh luận đầy sôi nổi đó đã góp phần làm cho vấn đề vũ trụ luận của triết học Trung Quốc trở nên sinh động và phong phú. Tài liệu tham khảo [1] Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, t.1, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. [2] Doãn Chính (2004), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3] Doãn Chính (2009), Từ điển triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [4] Chu Dịch (1959), Khai Trí, Sài Gòn. [5] Trần Đình Hượu (2005), Các bài giảng về tư tưởng Phương Đông, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. [6] Phùng Hữu Lan (2006), Lịch sử triết học Trung Quốc, t.2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [7] Nguyễn Hiến Lê (2002), Liệt Tử và Dương Tử, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. [8] Bàng Phác (1997), Trung Quốc Nho Học, Đông Phương, Nxb Trung tâm, Trung Quốc. [9] Lão Tử (1998), Đạo đức kinh, Nxb Văn hóa, Hà Nội. [10] Sách Mặc Tử (1959), Khai Trí, Sài Gòn. VõVăn Dũng 35
File đính kèm:
- ban_ve_huu_va_vo_trong_lich_su_triet_hoc_trung_quoc.pdf