Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin - Lại Thị Thúy Nga
I. Khái lợc về chủ nghĩa mác - lênin
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin và ba bộ phận cấu thành
Chủ nghĩa Mác - Lênin "là hệ thống quan điểm và học thuyết" khoa học
của C.Mác[1], Ph.Ăngghen[2] và sự phát triển của V.I. Lênin[3]; đợc hình
thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị t tởng nhân loại và tổng kết
thực tiễn thời đại; là thế giới quan, phơng pháp luận phổ biến của nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô
sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải
phóng con ngời.
Với nghĩa nh vậy, nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin bao quát các lĩnh
vực tri thức hết sức rộng lớn với nhiều giá trị khoa học và thực tiễn. Thế nhng,
nếu nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin với t cách là khoa học về sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột
và tiến tới giải phóng con ngời thì có thể thấy nội dung của chủ nghĩa Mác -
Lênin đợc cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản, có mối quan hệ thống nhất
biện chứng với nhau, đó là Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin
và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Triết học Mác - Lênin là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận
động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và t duy; xây dựng thế giới quan
và phơng pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Trên cơ sở thế giới quan và phơng pháp luận triết học, Kinh tế chính trị
Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy
luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phơng thức sản xuất tbản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phơng thức sản xuất mới – phơng
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan,
phơng pháp luận Triết học và Kinh tế chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu
làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa – bớc chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến
tới chủ nghĩa cộng sản.
Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tợng nghiên
cứu cụ thể khác nhau nhng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống
nhất - đó là khoa khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng
nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con ngời.
Ngày nay, có thể có nhiều học thuyết với lý tởng nhân đạo về giải phóng
giai cấp, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con ngời khỏi ách áp bức,
bóc lột nhng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới là học thuyết khoa học nhất,
chắc chắn nhất và chân chính nhất để thực hiện lý tởng ấy.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin - Lại Thị Thúy Nga
và các mối quan hệ xã hội. Quan hệ dân tộc theo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, dân tộc xã hội chủ nghĩa cũng chỉ có thể ra đời từ kết quả toàn diện trên mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá - tư tưởng. Dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự vận động mới theo hướng ngày càng tiến bộ, văn minh. Trong đó, hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc sẽ phát huy tác dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dan tộc, trong cả cộng đồng quốc gia. Quan hệ dân tộc sẽ là biểu hiện sinh động của hai xu hướng đó trong điều kiện của công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. - 142 - Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để xây dựng quan hệ dân tộc bình đẳng, hợp tác giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng là nhân tố quan trọng cho từng dân tộc nhanh chóng đi tới phồn vinh, hạnh phúc. Mỗi dân tộc không những có điều kiện khai thác tối đa tiềm năng của dân tộc mình để phát triển mà còn nhận được sự giúp đỡ, dựa vào tiềm năng của dân tộc anh em để phát triển nhanh chóng. Sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia sẽ làm cho những giá trị, tinh hoa của các dân tộc hoà nhập vào nhau, bổ sung cho nhau làm phong phú thêm giá trị chung của quốc gia - dân tộc. Những giá trị chung đó sẽ lại là cơ sở liên kết các dân tộc chặt chẽ, bền vững hơn. Tóm lại, dân tộc và quan hẹ dân tộc trong tiến trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng trong toàn bộ nội dung của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Xã hội mới từng bước tạo ra những điều kiện để xây dựng quan hệ hợp tác giữa các dân tộc. Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc gắn với sự phát triển của cả cộng đồng các dân tộc. Sự tăng cường tính thống nhất các dân tộc trở thành một quá trình hợp quy luật. Tuy nhiên, tính cộng đồng chung, tính thống nhất trên cơ sở giữ gìn và phát huy tinh hoa, bản sắc dân tộc. c, Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. do đó , giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác- Lênin cũng nhán mạnh rằng, khi xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp, cùng với sự phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc, V.I. Lênin đã nêu ra “ Cương lĩnh dân tộc” với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể tách rời trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân; là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của đảng Cộng sản và nhà nứoc xã hội chủ nghĩa. - 143 - - Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hoá, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải đuợc thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản. Trong quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế. - Các dân tộc được quyền tự quyết Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mõi dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị- xã hội của dân tộc mình. Quyền dân tộc tư quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập (vì lợi ích của các dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và quyền tự nguyện liên hiêp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc. - Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin. Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nó có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh đảm bảo cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các daan tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. 2. Tôn giáo và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo a, Khái niệm tôn giáo Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Nói chung, bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó. Khi phân tích bản chất tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, Ph.Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – - 144 - vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hang ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” [5;437]. Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử cụ thể, xác định. Về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bế tắc bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người. Trong những hệ thống những lời răn dạy của giáo lý tôn giáo cũng có những lời răn mà trong chừng mực nào đó khi quần chúng chấp nhận vẫn có tác dụng điều chỉnh đối với họ, như khuyên làm điều tốt, răn bỏ điều ác. Trong lịch sử xã hội loài người, tôn giáo xuất hiện từ rất sớm. Nó hoàn thiện và biến đổi cùng với sự biến đổi của những điều kiện kinh tế – xã hội, văn hoá, chính trị. Tôn giáo ra đời bởi nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng cơ bản là từ các nguồn gốc kinh tế – xã hội, nhận thưc và tâm lý. b, Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Có nhiều nguyên nhân cho sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau: - Nguyên nhân nhận thức Trong tiền trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều hiện tưọng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được, trong khi đố trình độ dân trí vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó, trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh. - Nguyên nhân kinh tế Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đời sống hiện thực, sự bát bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên. - Nguyên nhân tâm lý Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị- xã hội, tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến bộ của những biến đổi kinh tế- xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xã hội, trong đó ý thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống tinh thần của mỗi người, của xã hội. - Nguyên nhân chính trị- xã hội Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ - 145 - nghĩa xã hội, với chủ trương đường lối, chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những giá trị đạo đức, văn hoá với tinh thần nhân đạo, hưóng thiện đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân. - Nguyên nhân văn hoá Trong thực tế sinh hoạt văn hoá xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hoá tinh thần của cộng đồng xã hội và trong mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Về phương diện sinh hoạt văn hoá, tôn giáo thường được thực hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hoá có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã lôi cuốn một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hoá tinh thần, tình cảm của họ. Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với tiến trình đó, tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay đổi cuẩ những điều kiện kinh tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. c, Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn xác có tính nguyên tắc với những phương thức liên hoạt theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Giải quyết vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những nguyên tắc sau: Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đó là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai là, khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trong và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi công dân, Công dân có tôn giáo hay không có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân. Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo với những ngưòi không theo tôn giáo, đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Bốn là, phân biệt rõ hai măt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xa hội, khắc phục mặt này là việc làm thuờng xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi dụng tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt - 146 - chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và phải có sách lược phù hợp với thực tế. Năm là, có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động cảu từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực, các vấn đề về xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo. Người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể - đó là điều mà V.I. Lênin đã từng nhắc nhở khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có quan điểm và phương thức ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn giáo. Chú thíchchương vi 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3. 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4. 4. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19. 5. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20. 6. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.25. 7. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.30. 8. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33. 9. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.35. - 147 - - 148 -
File đính kèm:
- bai_giang_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac_lenin_lai.pdf