Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin được hiểu theo nghĩa

chung nhất là học thuyết khoa học về quy luật

phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con

người; về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và

nhân dân lao động chống lại mọi sự bất công, nô

dịch, áp bức; về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai

cấp công nhân và về cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 1

Trang 1

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 2

Trang 2

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 3

Trang 3

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 4

Trang 4

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 5

Trang 5

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 6

Trang 6

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 7

Trang 7

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 8

Trang 8

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 9

Trang 9

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 63 trang xuanhieu 3660
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin

Bài giảng Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin
 thống tư bản cách đây hơn 150 năm 
 (Xem: 
 bserve 1; )
• Cần bổ sung (sở hữu trí tuệ, bản quyền; 
 quảng cáo; quản lý phí của chính nhà tư 
 bản,v.v..) nhưng về bản chất học thuyết 
 giá trị thặng dư vẫn còn nguyên giá trị 
 khoa học.
 7. Về vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn 
thể của giai cấp vô sản.
• C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, trong tất 
 cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp 
 tư sản chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp 
 thực sự cách mạng có vai trò, sứ mệnh 
 lịch sử lật đổ giai cấp tư sản thiết lập một 
 chế độ xã hội mới không còn người bóc 
 lột người.
• Mặc dù cuộc sống có tiến bộ hơn, nhưng 
 bản thân người công nhân hiện đại vẫn là 
 người làm thuê hiện đại, vẫn bị bóc lột giá 
 trị thặng dư.
• Xét về nội dung kinh tế giai cấp công nhân 
 vẫn là chủ thể chủ yếu của quá trình sản 
 xuất vật chất trong nền công nghiệp hiện 
 đại, vẫn là người gắn với lực lượng sản 
 xuất hiện đại, có những phẩm chất như 
 tinh thần đồng đội, tập thể, có tầm nhìn xa 
 trông rộng, có tính kỷ luật cao, có khẳ 
 năng quy tụ, lãnh đạo các giai cấp khác.
• Xét về nội dung chính trị - xã hội cho thấy 
 chỉ có giai cấp công nhân mới có thể liên 
 minh với nhân dân lao động khác do đảng 
 cộng sản lãnh đạo để xây dựng xã hội 
 mới; mới giải quyết được các vấn đề 
 chính trị - xã hội trong quá trình xây dựng 
 xã hội mới.
• Xét về nội dung văn hóa, tư tưởng, chỉ có 
 giai cấp công nhân mới là lực lượng xác 
 lập được các hệ giá trị mới như lao động, 
 công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do để 
 thay thế cho hệ giá trị tư sản cũ.
 8. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội 
• CNXH với tư cách là một lý tưởng vẫn 
 sống mãi; sự sụp đổ của CNXH ở Liên 
 Xô, Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình 
 CNXH giáo điều, cứng nhắc, không phải 
 sự sụp đổ của CNXH nói chung.
• CNXH với tư cách là một phong trào hiện 
 thực vẫn tồn tại;
• CNXH với tư cách là một chế độ chính trị-
 xã hội vẫn tồn tại, phát triển ở Việt nam, 
 Trung Quốc, Cu Ba, Lào,v.v..
 •Mặc dù quan điểm của Mác, Ăngghen về 
chủ nghĩa xã hội mới chỉ mang tính phác 
thảo về những nguyên tắc chung nhất cơ 
bản nhất: có sự lãnh đạo của ĐCS; nền đại 
công nghiệp với chế độ công hữu về tư liệu 
sản xuất chủ yếu, phân phối theo lao đông; 
Nhà nước của dân, do dân, vì dân; dân chủ 
XHCN,.. vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và 
thực tiễn.
 •Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và sự diệt 
vong của chủ nghĩa tư bản là do tất yếu kinh 
tế quy định và đều tất yếu như nhau; cách 
thức khác nhau của các quốc gia, dân tộc đi 
lên chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội là kết 
quả phát triển tổng hợp của tinh hoa mọi 
thời đại, mọi dân tộc,
 II. NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, 
CON ĐƯỜNG LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở 
VIỆT NAM
 1. Phát triển lý luận về đặc trưng bản 
chất CNXH 
 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời 
kỳ quá độ lên CNXH (1991) đã nêu sáu đặc 
trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng. 
 - Đó là xã hội do nhân dân lao động làm 
chủ; 
 - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa 
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ 
công hữu về các tư- liệu sản xuất chủ yếu; 
 - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản 
sắc dân tộc; con ng-ười đ-ược giải phóng 
khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo 
năng lực hưởng theo lao động, có cuộc 
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện 
phát triển toàn diện cá nhân; 
 - Các dân tộc trong nước bình đẳng, 
đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; 
 - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với 
nhân dân tất cả các nước trên thế giới. 
 -Đến Đại hội X, Đảng ta lại có bước phát 
triển hơn nữa trong quan niệm về đặc trưng 
bản chất của CNXH: “Xã hội XHCN mà 
nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân 
giàu, n-ước mạnh, xã hội công bằng, dân 
chủ, văn minh; 
 -Do nhân dân làm chủ; 
 -Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực 
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản 
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực 
lư-ợng sản xuất; 
 -Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc 
dân tộc; con ng-ười đư-ợc giải phóng khỏi 
áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự 
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; 
 -Các dân tộc trong công đồng Việt Nam 
bình đẳng, đoàn kết, t-ương trợ và giúp đỡ 
nhau cùng tiến bộ; 
 -Có Nhà n-ước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân 
dân, d-ưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; 
 -Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân 
dân các nước trên thế giới”
 •Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời 
kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 
2011) đã phát triển thêm thành tám đặc 
trưng bản chất của CNXH: “Xã hội XHCN 
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: 
 •Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công 
bằng, văn minh; 
 •Do nhân dân làm chủ; 
 •Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên 
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản 
xuất tiến bộ phù hợp; 
 •Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản 
sắc dân tộc; 
 •Con người có cuộc sống ấm no, tự do, 
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 
 •Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam 
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau 
cùng phát triển; 
 •Có Nhà nước pháp quyền XHCN của 
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do 
Đảng Cộng sản lãnh đạo; 
 •Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với 
nhân dân các nước trên thế giới”. 
 Như vậy là lý luận về đặc trưng bản chất 
của CNXH được Đảng ta phát triển cụ thể 
hơn trong quá trình đổi mới.
2. Đảng ta phát triển lý luận về phương 
hướng xây dựng CNXH
 •Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời 
kỳ quá độ lên CNXH (1991) đề ra bẩy 
phương cơ bản để xây dựng CNXH ở Việt 
Nam: 
 Một là, xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà 
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân 
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với 
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm 
nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. 
 Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, 
công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện 
đại gắn liền với phát triển một nền nông 
nghiệp toàn diện. 
 Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực 
lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ 
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao 
với sự đa dạng về hình thức sở hữu. 
 Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều 
thành phần theo định hướng XHCN, vận 
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý 
của Nhà nước. 
 Kinh tế quốc 
doanh và kinh tế tập 
thể ngày càng trở 
thành nền tảng của 
nền kinh tế quốc 
dân. 
 Thực hiện nhiều 
hình thức phân phối, 
lấy phân phối theo 
kết quả lao động và 
hiệu quả kinh tế là 
chủ yếu. 
 Bốn là, tiến hành cách mạng XHCN trên 
lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế 
giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức 
Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống 
tinh thần xã hội.
 Kế thừa và phát huy những truyền thống văn 
hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, 
tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây 
dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích 
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ 
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày 
càng cao.
 Năm  là,  thự c  hi ệ n  chính  sách  đ ại  đoàn  k ế t  toàn 
dân tộ c, c ủ ng c ố  và m ở  r ộ ng m ặ t tr ậ n dân t ộ c th ố ng 
nhấ t, t ậ p h ợ p m ọ i l ự c l ượ ng ph ấ n đ ấu vì s ự  nghi ệ p 
dân  giàu,  nướ c  m ạ nh,  th ự c  hi ệ n  chính  sách  đ ối 
ngoạ i hòa bình, h ợ p tác và h ữ u ngh ị  v ớ i t ấ t c ả  các 
nướ c. 
Thủ tướng Nguyễn Xuân 
Phúc (phải) bắt tay Tổng 
thống Mỹ Donald Trump tại 
cuộc hội kiến ngày 
27/2. Ảnh: Ngọc Thành
 Thủ tướng Nguyễn Xuân 
 Phúc và Tổng thống Putin 
 tại Hội nghị thượng đỉnh 
 Nga - ASEAN 
 Sáu là, xây dự ng CNXH và b ả o v ệ  T ổ  qu ố c là 
hai  nhiệ m  v ụ   chi ế n  l ượ c  c ủ a  cách  m ạ ng  Vi ệ t 
Nam.
 Bả y là, xây dự ng Đ ảng trong s ạ ch, v ữ ng m ạ nh 
về  chính tr ị , t ư  t ưở ng và t ổ  ch ứ c ngang t ầ m nhi ệ m 
vụ , b ả o đ ảm cho Đ ảng làm tròn trách nhi ệ m lãnh 
đạo s ự  nghi ệ p cách m ạ ng XHCN  ở  n ướ c ta.
 Tổng kết 25 năm đổi mới, Cương lĩnh xây 
dựng dất nước trong thời kỳ quá độ lên 
CNXH (Bổ sung, phát triển 2011) đã đưa ra 
tám phương hướng lớn: 
 Một là, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước 
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài 
nguyên, môi trường. 
 Hai là, phát triển kinh tế thị trường định 
hướng XHCN. 
 Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, 
đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con 
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực 
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. 
 Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng, 
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
 Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại, 
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát 
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. 
 Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, 
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng 
cường và mở rộng mặt trận thống nhất. 
 Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền 
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân 
dân. 
 Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững 
mạnh. Như vậy, lý luận về phương hướng 
xây dựng CNXH ở nước ta ngày càng được 
Đảng ta hoàn thiện, phát triển. Ngay trong 
từng phương hướng này, trong quá trình đổi 
mới Đảng ta thường xuyên đổi mới, bổ 
sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn 
đất nước và thời đại.
 3. Đảng ta phát triển lý luận về quá độ 
lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
 Trước đổi mới, Đảng ta xác định quá độ 
lên CNXH ở nước ta là sự “bỏ qua giai 
đoạn phát triển TBCN”. Trong công cuộc đổi 
mới, C-ương lĩnh xây dựng đất n-ước trong 
thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) đã sử dụng 
cụm từ “bỏ qua chế độ t-ư bản” và xác định: 
“Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ 
t-ư bản từ một xã hội thuộc địa, nửa phong 
kiến, lực l-ượng sản xuất rất thấp”
 •Đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển cụ 
thể hơn: “Con đ-ường đi lên của nước ta là 
sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế 
độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí 
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc 
thư-ợng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế 
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt 
đ-ược dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa 
học và công nghệ để phát triển nhanh lực l-
ượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện 
đại”. 
 •Đây là bư-ớc phát triển quan trọng của lý 
luận về con đ-ường lên CNXH bỏ qua chế 
độ TBCN của Đảng ta.
 4. Đảng ta hình thành và phát triển lý 
luận về nền kinh tế thị trường định h-
ướng XHCN
 Đại hội VI kế thừa NEP của V.I.Lênin, 
xác định: “Nền kinh tế có cơ cấu nhiều 
thành phần là một đặc tr-ưng của thời kỳ 
quá độ”
 Tuy nhiên, Đại hội VI mới xem việc sử 
dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ 
chỉ là “đặc trư-ng thứ hai” của cơ chế quản 
lý kinh tế mới. Đại hội VII có bước phát triển 
hơn, đã xác định, đó là “nền kinh tế hàng 
hóa nhiều thành phần theo định hướng 
XHCN, vận hành theo cơ chế thị trư-ờng có 
sự quản lý của Nhà nước”.
 Đồng thời cụ thể hóa một bước chế độ 
công hữu “về các t-ư liệu sản xuất chủ yếu”.
 Đến Đại hội IX khái niệm nền kinh tế thị 
trường định hư-ớng XHCN đ-ược khẳng 
định với quan niệm: “Nền kinh tế hàng hóa 
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị 
tr-ường có sự quản lý của Nhà n-ước theo 
định h-ướng XHCN; đó chính là nền kinh tế 
thị trường định hư-ớng XHCN
5. Đảng ta phát triển lý luận về nhà n-ước 
pháp quyền XHCN
 Trong quá trình đổi mới, Đảng ta nhận thấy 
sự cần thiết phải khai thác những giá trị của lý 
luận nhà nư-ớc pháp quyền trong lịch sử tư- t-
ưởng nhân loại. Tuy vậy, khái niệm “nhà n-
ước pháp quyền” vẫn chư-a đ-ược sử dụng 
trong Cư-ơng lĩnh xây dựng đất n-ước trong 
thời kỳ quá độ lên CNXH(1991) của Đảng và 
Hiến pháp 1992. 
 Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ 
khóa VII của Đảng (1994) lần đầu tiên sử 
dụng thuật ngữ “nhà n-ước pháp quyền” khi 
khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng b-ước 
hoàn thiện nhà nư-ớc pháp quyền Việt Nam. 
 Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, 
vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội 
bằng pháp luật”
 Tuy nhiên, nhận thức về “nhà nư-ớc pháp 
quyền” mới là b-ước đầu. Đại hội IX đánh 
dấu bước phát triển rõ rệt lý luận của Đảng 
ta về xây dựng nhà n-ước pháp quyền 
XHCN Việt Nam: Nhà n-ước ta là nhà nước 
pháp quyền của dân, do dân, vì dân, quyền 
lực nhà nước là thống nhất, nh-ưng có sự 
phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ 
giữa các cơ quan quyền lực nhà nư-ớc trong 
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành 
pháp, t-ư pháp. 
 Quan điểm này của Đại hội IX đã đư-ợc 
thể hiện trong khi sửa đổi một số điều Hiến 
pháp 1992(năm 2001) và tiếp tục đ-ược 
khẳng định ở Đại hội X với chủ trư-ơng: 
“Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà n-ước 
pháp quyền XHCN, bảo đảm nguyên tắc tất 
cả quyền lực nhà n-ước đều thuộc về nhân 
dân; quyền lực nhà n-ước là thống nhất, có 
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan 
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành 
pháp và t-ư pháp”.
 •Đại hội XI đã có bước phát triển thêm khi 
khẳng định phải nâng cao nhận thức về xây 
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, “nghiên 
cứu, xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ 
chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên 
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự 
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các 
cơ quan trong việc thực hiện quyền lập 
pháp, hành pháp và tư pháp”. 
 •Đây là sự phát triển lý luận của Đảng ta 
về nhà nước pháp quyền XHCN như một 
hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của 
nhân dân.
6. Đảng ta phát triển lý luận về văn hóa 
với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội
 “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã 
hội” được Đảng nêu ra lần đầu tiên trong 
Nghị quyết hội nghị lần thứ Tư (khóa VII) 
(1.1993). Sau đó luận điểm này được khẳng 
định lại trong các văn kiện Đại hội lần thứ 
VIII, IX, X, XI của Đảng và văn kiện Hội nghị 
Trung ương 5 (khóa VIII); 10 (khóa IX). 
 Đây là thành tựu lớn về phát triển lý luận 
của Đảng về văn hóa với tính cách là nền 
tảng tinh thần của xã hội; văn hoá vừa là 
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển 
kinh tế. 
 •Theo quan niệm của Đảng ta, phát triển 
văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của 
xã hội ở Việt Nam là nhằm hình thành, xây 
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến 
đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa những giá 
trị văn hóa truyền thống, tiếp thu những tinh 
hoa văn hóa nhân loại; 
 •Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc 
hướng tới sự giáo dục, phát triển những con 
người có tinh thần yêu nước, yêu gia đình, có chủ 
nghĩa quốc tế trong sáng, phát triển hài hòa giữa 
đời sống vật chất và đời sống tinh thần, phát triển 
các giá trị thể chất, giá trị đạo đức, giá trị tri thức, 
giá trị thẩm mỹ.
 Trên đây là một số nội dung tiêu biểu cho 
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin 
vào nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con 
đường lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. 
Sở dĩ, Đảng ta vận dụng và phát triển sáng 
tạo thành công chủ nghĩa Mác-Lênin trong 
quá trình đổi mới, là do Đảng ta đã xuất 
phát từ thực tiễn Việt Nam và thời đại để 
vận dụng; 
 Thường xuyên tổng kết thực tiễn có lý 
luận để bổ sung, phát triển lý luận; nắm 
vững các nguyên tắc khách quan, toàn diện, 
phát triển, lịch sử-cụ thể, thực tiễn vào đổi 
mới; 
 Chân thành học hỏi kinh nghiệm quốc tế 
trong vận dụng và phát triển lý luận. 
Xin chân thành cám ơn!

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_nhung_gia_tri_ben_vung_cua_chu_nghia_mac_lenin.pdf