Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ

1.1. Nguồn gốc, khái niệm và vai trò của thƣơng mại - dịch vụ

1.1.1. Nguồn gốc của thương mại - dịch vụ

a. Cơ sở ra đời của thương mại - dịch vụ

Thƣơng mại - Dịch vụ đƣợc tồn tại và phát triển trong xã hội có sản xuất

hàng hóa và lƣu thông hàng hóa. Khi không còn sản xuất hàng hóa và lƣu thông

hàng hóa thì thƣơng mại dịch vụ cũng tự mất đi. V. I. Lênin đã chỉ ra rằng “nên

hiểu sản xuất hàng hóa là một tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó sản xuất đều do

con ngƣời cá thể riêng lẻ sản xuất ra, mỗi ngƣời chuyên làm một sản phẩm nhất

định, thành thử muốn thỏa mãn nhu cầu của xã hội thì cần phải mua bán sản

phẩm. Vì vậy, sản phẩm mới trở thành hàng hóa trên thị trƣờng”. Từ đó rút ra

những điều kiện ra đời, tồn tại và phát triển sản xuất hàng hóa, lƣu thông hàng

hóa nhƣ sau: Kinh tế thƣơng mại dịch vụ ra đời dựa trên tiền đề về sở hữu tƣ

liệu sản xuất và phân công lao động xã hội cũng nhƣ về lợi thế so sánh của mỗi

vùng, mỗi quốc gia hay của mỗi doanh nghiệp, doanh nhân.

Sở hữu tư liệu sản xuất:

Sự khác nhau về tƣ liệu sản xuất đã dẫn đến sự khác nhau về sản phẩm của

xã hội. Xã hội xuất hiện những nhóm ngƣời có tƣ liệu sản xuất đƣợc hƣởng phần

lớn hơn khi thành quả của lao động tạo ra theo hƣớng chuyên môn hóa. Chuyên

môn hóa sản xuất đã làm tăng thêm lực lƣợng sản xuất xã hội và là một trong

những động lực chủ yếu của tăng trƣởng kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Chính yếu tố chuyên môn hóa sản xuất đã đặt ra sự cần thiết phải trao đổi trong

xã hội các sản phẩm giữa ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng. Mối quan hệ trao

đổi hàng tiền đó chính là lƣu thông hàng hóa.

Trong chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, ngƣời sản xuất độc lập

với nhau về mặt kinh tế. Sản phẩm sản xuất ra thuộc quyền chiếm hữu của từng

ngƣời sản xuất riêng lẻ, không ai có quyền lấy không của họ, do đó, đòi hỏi sự

trao đổi sản phẩm giữa những ngƣời sản xuất với nhau phải là sự trao đổi hoàn

lại, mà phải hoàn lại một vật có giá trị tƣơng đƣơng. Sản phẩm trở thành hàng

hóa. Trong nền sản xuất lớn, sự tách biệt giữa quyền sở hữu về tƣ liệu sản xuất

và quyền sử dụng, thì sự tách biệt kinh tế giữa ngƣời sản xuất, giữa các doanh

nghiệp thuộc cùng một chế độ sở hữu do tính tự chủ kinh doanh quyết định.

Chính do chế độ sở hữu khác nhau về tƣ liệu sản xuất và những hình thức tách4

biệt khác về kinh tế đã làm cho lao động của ngƣời sản xuất mang tính chất lao

động tƣ nhân, làm cho sản xuất và tái sản xuất của họ tách biệt với nhau về mặt

kinh tế. Trong điều kiện đó, khi muốn tiêu dùng các sản phẩm của nhau thì họ

phải trao đổi sản phẩm dƣới hình thái hàng hóa - tiền tệ.

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 1

Trang 1

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 2

Trang 2

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 3

Trang 3

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 4

Trang 4

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 5

Trang 5

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 6

Trang 6

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 7

Trang 7

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 8

Trang 8

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 9

Trang 9

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 195 trang xuanhieu 7180
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ

Bài giảng Kinh tế thương mại và dịch vụ
nh tế: Là một yếu tố rất quan trọng, nó chi phối, tác động 
tới hiệu quả kinh tế của cả nền kinh tế nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng. 
 183 
b. Các yếu tố chủ quan 
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp du lịch: Thể hiện về mặt vật 
chất mà doanh nghiệp dùng để sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm tài sản cố định 
và tài sản lƣu động. Về mặt giá trị nó bao gồm vốn cố định và vốn lƣu động. 
- Đội ngũ lao động trong doanh nghiệp: Đây cũng là một yếu tố tác động 
trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các doanh 
nghiệp du lịch phải chú trọng đến công tác đào tạo, không ngừng nâng cao đội 
ngũ lao động, kể cả đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân viên. 
- Cơ cấu tổ chức và phƣơng pháp quản lý của doanh nghiệp: Cơ cấu tổ 
chức quản lý của doanh nghiệp phải gọn nhẹ và có hiệu quả. 
Các nhân tố trên tác động đến hiệu quả kinh tế theo các hƣớng khác nhau 
nhƣng chúng có một mối liên hệ và tác động qua lại với nhau. Do đó, việc đánh 
giá một cách đúng đắn và khai thác triệt để những tác động có lợi là cơ sở hết 
sức quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh tế. 
4.6.6.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch 
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, để có thể tồn tại, đứng vững 
và phát triển, các doanh nghiệp không còn con đƣờng nào khác là phải nâng cao 
hiệu quả kinh tế. Vì có nâng cao đƣợc hiệu quả sản xuất kinh doanh mới có thể 
tích lũy để tái sản xuất mở rộng, tăng cƣờng ƣu thế trong cạnh tranh để từ đó 
mới có điều kiện giải quyết thỏa đáng lợi ích kinh tế giữa Nhà nƣớc, doanh 
nghiệp và ngƣời lao động. Nếu kinh doanh thua lỗ kéo dài mà không có biện 
pháp khắc phục thì tất yếu doanh nghiệp sẽ bị phá sản. 
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch cần tập trung thực hiện một số 
biện pháp nhằm: 
 Khôi phục thị trường du lịch bằng cách phát huy lợi thế so sánh, giảm 
giá vé du lịch, tặng vé miễn phí cho một số khách du lịch đặc biệt, thực hiện 
quảng cáo thƣơng hiệu và trợ giá cho sản phẩm du lịch, giảm hoặc giãn thuế cho 
các doanh nghiệp lữ hành và dịch vụ du lịch; 
 Thu hút khách quốc tế (xuất khẩu tại chỗ) nhằm tăng thu ngoại tệ, duy trì 
cân bằng cán cân thanh toán, giảm thiểu lạm phát; 
 Đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng; 
 Phát triển gói sản phẩm riêng cho du khách; 
 Quảng cáo, quảng bá giới thiệu sản phẩm du lịch; 
 184 
 Cải cách các thủ tục hành chính, đặc biệt là xuất nhập khẩu; 
 Khuyến khích du lịch nội địa nhằm kích cầu tiêu dùng, tăng lƣu chuyển 
và hiệu quả sử dụng vốn, tăng tỷ trọng đóng góp của ngành du lịch vào GDP, 
tạo nhiều việc làm mới, đảm bảo an sinh xã hội; 
 Tăng cường hợp tác và liên kết kinh doanh du lịch. 
4.7. Dịch vụ bảo hiểm 
4.7.1. Khái niệm 
Trong cuộc sống cũng nhƣ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, con ngƣời 
luôn gặp phải những điều không chắc chắn và rủi ro. Do vậy, bảo hiểm chính là 
giá đỡ cho những thiệt hại do rủi ro gây ra. 
Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ 
cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường 
hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách 
nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các thỏa thuận đƣợc 
ghi trong Hợp đồng Bảo hiểm. 
Về mặt bản chất thì bảo hiểm đƣợc xem nhƣ là một cách thức chuyển giao 
rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua 
phí bảo hiểm. Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một ngƣời hay của một 
số ít ngƣời cho cả cộng đồng những ngƣời có khả năng gặp rủi ro cùng loại; 
bằng cách mỗi ngƣời trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ 
chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng 
không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. 
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phân 
phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi ro, các 
biến cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội 
đƣợc diễn ra bình thƣờng. 
Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài 
trợ rủi ro, đƣợc sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thƣờng là tổn 
thất về tài chính, con ngƣời nhằm giảm thiểu thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. 
4.7.2. Đặc điểm 
* Đặc điểm chung: Sản phẩm bảo hiểm mang những đặc điểm chung của 
sản phẩm dịch vụ: tính không hiện hữu, tính không tách rời giữa sản xuất và tiêu 
dùng, tính không đồng nhất về chất lƣợng sản phẩm, tính không lƣu trữ. 
 185 
* Đặc điểm riêng: 
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm “không mong đợi”: Không giống nhƣ 
những loại sản phẩm khác, khi mua một sản phẩm bảo hiểm thì ngƣời tham gia 
phải thanh toán một khoản phí cho ngƣời bảo hiểm nhƣng họ chỉ thực sự nhận 
đƣợc giá trị sử dụng của sản phẩm đó khi họ có rủi ro thông qua số tiền bồi 
thƣờng của bảo hiểm. Do vậy, khi tham gia bảo hiểm, khách hàng không mong 
muốn nhận đƣợc số tiền đƣợc chi trả từ bảo hiểm vì không ai muốn rủi ro xảy ra 
đối với mình; 
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của “chu trình hạch toán đảo ngược”: 
Chu trình kinh doanh đảo ngƣợc là sản phẩm đƣợc bán ra trƣớc, doanh thu đƣợc 
thực hiện trƣớc rồi sau đó mới phát sinh chi phí. Theo chu trình này, các tổ chức 
bảo hiểm nhận phí bảo hiểm trƣớc và thực hiện nghĩa vụ sau với bên đƣợc bảo 
hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm thực tế. Đặc điểm này tạo ra tính nhàn rỗi của 
vốn bảo hiểm, từ đó cho phép các tổ chức bảo hiểm có thể sử dụng chúng tham 
gia vào thị trƣờng tài chính để sinh lời; 
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có “hiệu quả xê dịch”: Có nghĩa là lợi 
ích đối với khách hàng từ việc chi trả, bồi thƣờng cũng bấp bênh và xê dịch theo 
thời gian. Ngƣời ta mua bảo hiểm nhƣng không biết mình sẽ sử dụng khi nào. 
Đối với loại sản phẩm chỉ mang tính rủi ro thì khách hàng mua bảo hiểm không 
những không mong muốn mà còn không bao giờ có ý nghĩa sẽ gặp rủi ro để 
đƣợc bồi thƣờng. 
4.7.3. Tính chất 
- Tính kinh tế của bảo hiểm: Đối với ngƣời tham gia bảo hiểm, họ phải nộp 
vào quỹ bảo hiểm một số phí bảo hiểm, đồng thời họ lại nhận từ quỹ bảo hiểm 
một số tiền bồi thƣờng góp phần ổn định về kinh tế do rủi ro gây ra, nhờ đó sẽ 
giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách. Đối với công ty bảo hiểm, các hoạt động của 
các tổ chức bảo hiểm là hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. 
- Tính xã hội của bảo hiểm: Mỗi thành viên trong xã hội đều có quyền 
tham gia bảo hiểm. Ngƣợc lại, xã hội lại có trách nhiệm bảo hiểm cho các thành 
viên của mình. Ngoài ra, bảo hiểm còn mang tính nhân đạo, tính tƣơng trợ lẫn 
nhau và tính cộng đồng. 
- Tính dịch vụ của bảo hiểm: Ở đâu có nhu cầu bảo hiểm thì ở đó có hoạt 
động bảo hiểm. Nhƣ vậy, bảo hiểm ra đời trên hai cơ sở cơ bản: Do nhu cầu của 
các thành viên tham gia và do giao lƣu văn hóa, kinh tế giữa các vùng và các 
nƣớc với nhau. Kinh tế xã hội càng phát triển thì nhu cầu bảo hiểm càng cao. 
 186 
4.7.4. Chức năng 
* Chức năng phân phối của bảo hiểm đƣợc thực hiện thông qua quá trình 
lập và sử dụng quỹ bảo hiểm. Quan hệ phân phối của bảo hiểm là quan hệ phân 
phối lại thu nhập của các đối tƣợng tham gia bảo hiểm, cũng nhƣ thu nhập của 
ngân sách. Chức năng này đƣợc thể hiện thông qua việc bồi thƣờng và nó có hai 
đặc điểm: 
- Việc phân phối này chỉ diễn ra với ngƣời mua bảo hiểm; 
- Mức độ phân phối nói chung là không định trƣớc, phân phối của bảo hiểm 
là phân phối không đều, theo quy luật số đông bù số ít. 
* Chức năng bảo vệ quyền lợi của đối tượng tham gia bảo hiểm đƣợc thể 
hiện thông qua việc giám sát việc thực hiện các chính sách bảo hiểm đối với các 
đối tƣợng. Đồng thời chức năng này còn đƣợc thể hiện thông qua việc đề phòng 
và hạn chế rủi ro xảy ra, cũng nhƣ hạn chế tổn thất sau khi xảy ra rủi ro. 
Hoạt động bảo hiểm sẽ đem lại sự ổn định về kinh tế cho các đối tƣợng 
mua bảo hiểm, tăng thu và giảm chi cho ngân sách, đảm bảo an toàn cho xã hội. 
Ngoài ra, hoạt động bảo hiểm còn góp phần tăng cƣờng hoạt động kinh tế giữa 
các nƣớc. 
4.7.5. Các hình thức bảo hiểm chủ yếu ở Việt Nam 
a. Bảo hiểm xã hội 
Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành trong chính sách xã hội nhằm 
đảm bảo đời sống cho ngƣời lao động và gia đình họ khi ngƣời lao động bị mất 
hay giảm khả năng lao động. Các tổ chức, các doanh nghiệp sử dụng lao động 
phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với ngƣời lao động. Mặt khác, các công 
nhân viên chức, ngƣời lao động sẽ bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi bảo hiểm 
xã hội. 
Tại Việt Nam hiện nay, có hai cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội là: 
- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam: quản lý 5% trong 15% để chi cho ốm 
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, an dƣỡng và nghỉ ngơi; 
- Bộ Lao động, Thƣơng binh và xã hội: từ năm 1995 đến nay, quỹ bảo hiểm 
xã hội do Bộ Lao động, Thƣơng binh và xã hội quản lý. Trong đó: 10% trong 
tổng số 14% để chi cho 3 chế độ: nghỉ hƣu, mất sức và tử tuất. 
b. Bảo hiểm y tế 
Con ngƣời trong quá trình tồn tại và phát triển khó có thể tránh khỏi ốm 
đau và bệnh tật bất ngờ. Để chủ động về tài chính cho việc khám và chữa bệnh, 
ngƣời ta có rất nhiều biện pháp khác nhau, nhƣng biện pháp hữu hiệu nhất là bảo 
hiểm y tế. 
 187 
Bảo hiểm y tế sẽ giúp ngƣời tham gia bảo hiểm y tế khắc phục khó khăn về 
kinh tế khi rủi ro về mặt sức khỏe xảy ra. Hơn nữa, bảo hiểm y tế góp phần nâng 
cao chất lƣợng và công bằng xã hội trong việc khám chữa bệnh. Cơ quan Bảo 
hiểm Y tế Việt Nam ra đời ngày 10/1992 theo Quyết định số 299-HĐBT ngày 
15/8/1992 của Hội đồng Bộ trƣởng. 
Ở Việt Nam, bảo hiểm y tế là bắt buộc đối với cán bộ, công nhân viên đang 
làm việc, hƣu trí, bị mất sức trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức 
Đảng, Đoàn thể do hƣởng lƣơng bằng ngân sách, các tổ chức, doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh có thuê lao động, các tổ chức quốc tế có thuê lao động Việt 
Nam. Nguồn của bảo hiểm y tế thƣờng là do giới chủ, ngƣời lao động và một 
phần là do ngân sách Nhà nƣớc cấp. 
Ngƣời tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng góp chi phí bảo hiểm y tế 
theo phƣơng thức cùng chi trả và đƣợc quyền khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế 
đã đăng ký. Mọi chi phí cho việc khám, chữa bệnh sẽ đƣợc bảo hiểm y tế chi trả 
theo quy định. Theo quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/01/2002 thì Bảo 
hiểm Y tế sát nhập vào Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. 
c. Bảo hiểm kinh doanh 
Bảo hiểm hoạt động kinh doanh: đây là tổng thể các mối quan hệ kinh tế giữa 
các đơn vị kinh tế, nhằm khắc phục hậu quả do rủi ro bất ngờ xảy ra cho hoạt động 
kinh doanh của họ để ổn định, khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh. 
Khi tiến hành các nghiệp vụ bảo hiểm kinh doanh cần phải tôn trọng các 
nguyên tắc cơ bản sau: 
- Chỉ bảo hiểm những gì không lƣờng trƣớc đƣợc; 
- Bảo hiểm không đƣợc phép biến thành phƣơng tiện để ngƣời tham gia 
bảo hiểm làm giàu bất chính; 
- Quyền lợi bảo hiểm tƣơng ứng với nghĩa vụ đóng góp; 
- Bảo hiểm không có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho ngƣời bảo hiểm. Bên 
cạnh các nguyên tắc trên, các công ty bảo hiểm cần tôn trọng các nguyên tắc sau: 
Nguyên tắc số đông; phân tán rủi ro; trung thực tuyệt đối; lựa chọn rủi ro. 
Kinh tế phát triển, cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, tính rủi ro trong 
kinh doanh càng cao thì nhu cầu bảo hiểm kinh doanh càng cao. Tuy vậy, bảo 
hiểm kinh doanh ở Việt Nam trong suốt thời gian qua chƣa có sự phát triển 
tƣơng xứng. Doanh thu từ bảo hiểm kinh doanh còn thấp và không ổn định. 
 188 
d. Bảo hiểm tài sản 
Tải sản là của cải vật chất do lao động xã hội tạo ra và tích lũy lại. Nó cũng 
là cơ sở vật chất của các đơn vị kinh tế, cũng nhƣ của từng cá nhân và từng gia 
đình. Bảo hiểm tài sản là góp phần bảo vệ quyền sở hữu của đối tƣợng tham gia 
bảo hiểm, đồng thời nó cũng bảo đảm an toàn cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nền 
kinh tế và đảm bảo đời sống cho ngƣời dân trƣớc những rủi ro đe dọa. 
Các rủi ro đƣợc bảo hiểm chủ yếu là: Hỏa hoạn, do thiên tai bất ngờ, do 
hành động hy sinh để cứu tính mạng con ngƣời, cứu các tài sản khác có giá trị 
hơn. Rủi ro có đặc trƣng của từng loại tài sản, tùy loại tài sản mà số tiền đƣợc 
xác định khác nhau. 
e. Bảo hiểm hàng hóa xuất, nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển 
Hàng hóa xuất, nhập khẩu đều phải mua bảo hiểm. Ngƣời mua bảo hiểm có 
thể là ngƣời bán hoặc mua hàng. Ngƣời bán, ngƣời mua, ngƣời chuyên chở, 
ngƣời bảo hiểm, khi có rủi ro xảy ra nhƣ thiên tai, do tai nạn bất ngờ, ngƣời bảo 
hiểm chỉ trả bảo hiểm cho những rủi ro do nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. 
Căn cứ vào quyền lợi và trách nhiệm bảo hiểm, tổn thất bao gồm tổn thất riêng 
và tổn thất toàn bộ. Bảo hiểm vừa bồi thƣờng giá trị thiệt hại vật chất của tổn 
thất riêng, vừa chi trả những chi phí liên quan đến tổn thất riêng nhằm hạn chế 
những hƣ hại khi tổn thất xảy ra và gọi là tổn thất chi phí riêng. 
Hao hụt tự nhiên của hàng hóa về trọng lƣợng không đƣợc tính vào tổn thất 
bộ phận vì bảo hiểm không bồi thƣờng hao hụt tự nhiên. 
Ngoài hình thức bảo hiểm trên, kinh doanh bảo hiểm còn hoạt động trong 
các lĩnh vực sau: Bảo hiểm cháy, bảo hiểm thuê tàu, bảo hiểm trách nhiệm cá 
nhân, bảo hiểm đầu tƣ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu, bảo hiểm hàng 
không, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm con ngƣời, bảo hiểm trách nhiệm dân 
sự của chủ phƣơng tiện giao thông trong nƣớc 
 189 
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƢƠNG 4 
1. Phân tích các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh dịch vụ. Liên 
hệ thực tế ở Việt Nam ? 
2. Trình bày khái niệm, đặc điểm và vai trò của dịch vụ thƣơng mại ? 
3. Dịch vụ logistics có vai trò và ý nghĩa nhƣ thế nào đối với hoạt động 
kinh tế ? 
4. Dịch vụ trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa có những loại hình 
nào. Nêu vai trò và đặc điểm của các loại hình đó ? 
5. Phân tích điều kiện phát triển dịch vụ du lịch. Liên hệ thực tế ở Việt Nam ? 
6. Phân tích chức năng của dịch vụ bảo hiểm. Khái quát các hình thức bảo 
hiểm chủ yếu ở Việt Nam ? 
 190 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đặng Đình Đào (2003). Giáo trình Kinh tế các ngành thương mại - dịch vụ. 
Nxb Thống kê, Hà Nội. 
2. Đặng Đình Đào, Hoàng Đức Thân (2008). Giáo trình Kinh tế thương mại. 
Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 
3. Đặng Đình Đào, Vũ Thị Thanh Loan, Nguyễn Minh Ngọc, Đặng Thu Hƣơng, 
Phạm Thị Minh Thảo (2011). Logistics những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt 
Nam. Nxb Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 
4. Nghị định 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ Logistics. 
5. Phạm Thị Định, Nguyễn Văn Định (2015). Giáo trình Kinh tế bảo hiểm. Nxb 
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 
6. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2009). Giáo trình Kinh tế du lịch. 
Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 
7. Ủy ban thƣờng vụ quốc hội (1999). Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam. 
8. Quyết định số 299-HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về Bảo 
hiểm Y tế Việt Nam. 
9. Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/01/2002 về việc sát nhập Bảo hiểm Y 
tế vào Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. 
10. Nguyễn Thông Thái, An Thị Nhàn (2011). Giáo trình Quản trị Logistics 
kinh doanh. Nxb Thống kê, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_kinh_te_thuong_mai_va_dich_vu.pdf