Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán

Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:

 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia

thảo luận trên diễn đàn.

 Đọc tài liệu:

Giáo trình Lý thuyết kiểm toán – NXB Tài chính – GS.TS. Nguyễn Quang Quynh và

PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa.

 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc

qua email.

 Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.

Nội dung

Bài học này giới thiệu các vấn đề về kiểm tra, kiểm soát trong quản lý; bản chất của kiểm

toán; chức năng của kiểm toán; và ý nghĩa của kiểm toán trong quản lý.

Mục tiêu

 Giúp sinh viên hiểu được vai trò của kiểm tra, kiểm soát trong hoạt động quản lý và

những yếu tố nào của quản lý có tác động đến hoạt động kiểm tra kiểm soát.

 Giúp sinh viên nhận thức được bản chất của kiểm toán thông qua việc tìm hiểu các

quan điểm khác nhau về kiểm toán.

 Giúp sinh viên nắm bắt được các chức năng cơ bản của kiểm toán.

 Giúp sinh viên thấy rõ được ý nghĩa của kiểm toán đối với các đối tượng sử dụng thông

tin tài chính của đơn vị cũng như đối với các nhà quản lý trong đơn vị.

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 1

Trang 1

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 2

Trang 2

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 3

Trang 3

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 4

Trang 4

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 5

Trang 5

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 6

Trang 6

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 7

Trang 7

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 8

Trang 8

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 9

Trang 9

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 20 trang xuanhieu 15740
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán

Bài giảng Kiểm toán căn bản - Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán
o tài chính, kiểm toán viên sẽ đưa ra kết luận của 
mình về các vấn đề đã được xác minh. Ngoài ra, trong quá trình kiểm toán, nếu phát 
hiện những điểm yếu trong quá trình quản lý nói chung và trong công tác tài chính kế 
toán nói riêng thì kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến dưới dạng tư vấn. Hình thức đưa 
kết luận như thế nào cũng có sự khác nhau giữa các khách thể kiểm toán và giữa các 
nước khác nhau. 
Tùy theo từng lĩnh vực, chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện khác nhau: 
 Ở khu vực công cộng, chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện dưới hai hình thức: 
o Bày tỏ ý kiến dưới hình thức phán xử như một quan toà. 
Kiểm toán thực hiện kiểm tra các tài liệu, 
tình hình quản lý của các tổ chức, cá nhân có 
sử dụng ngân sách nhà nước để xác minh 
tính chính xác và hợp lệ của tài liệu thu, chi 
trong đơn vị đó. Đồng thời, khi có sai phạm 
xảy ra, kiểm toán có quyền ra quyết định xử 
lý như một quan toà thông qua các phán 
quyết của mình. 
Theo hình thức này, khi đã có quyết định thì bắt buộc phải điều chỉnh theo ý 
kiến kết luận của kiểm toán viên, nếu không sẽ bị xử phạt theo hình thức phán 
quyết của toà án. Hình thức này chỉ áp dụng đối với kiểm toán khu vực công – 
khu vực có sử dụng nguồn ngân sách nhà nước. Hình thức này được áp dụng 
tại Pháp và các nước Tây Âu. 
 Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán 
TXKTKI03_Bai1_v1.0015105212 15 
o Bày tỏ ý kiến dưới hình thức tư vấn. 
Đây là việc kiểm toán thực hiện kiểm tra nguồn thu và sử dụng công quỹ của 
các đơn vị có sử dụng nguồn ngân sách nhà nước. Sau đó đưa ra lời khuyên cụ 
thể trong việc sử dụng, quản lý công quỹ. 
Nếu như ở hình thức phán quyết như một quan toà, khi kiểm toán viên phát 
hiện ra sai phạm hoặc những điểm yếu trong công tác quản lý nói chung và 
công tác tài chính kế toán nói riêng, kiểm toán viên sẽ bắt buộc đơn vị phải sửa 
đổi theo ý kiến của kiểm toán viên thì ở hình thức thứ hai, bày tỏ ý kiến dưới 
hình thức tư vấn, kiểm toán viên khi phát hiện ra điểm yếu sẽ kiến nghị đơn vị 
điều chỉnh, kiểm toán không thực hiện xử lý mà chỉ tư vấn, đưa ra các lời 
khuyên cho đơn vị được kiểm toán. 
Hình thức này áp dụng khá phổ biến ở các nước Bắc Mỹ và nhiều nước trong 
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 
Ở Việt Nam, cơ quan kiểm toán nhà nước áp dụng theo hình thức thứ hai, tức 
là sau khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán nhà nước sẽ đưa ý kiến tư vấn cho 
đơn vị điều chỉnh chứ không cưỡng bức thi hành. Việc điều chỉnh hay không là 
tùy thuộc đơn vị, nếu đơn vị không điều chỉnh, Cơ quan Kiểm toán nhà nước 
không có quyền trực tiếp xử phạt mà chỉ có thể đệ trình lên các cấp có thẩm 
quyền để xử phạt. 
 Ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài ngân sách nhà nước 
Chức năng bày tỏ ý kiến được thực hiện chủ yếu 
dưới hình thức tư vấn. Đây là việc kiểm toán 
viên đưa ra các ý kiến tư vấn cho doanh nghiệp 
được kiểm toán về các vấn đề mà họ quan tâm. 
Khác với khu vực công, chức năng bày tỏ ý kiến 
của kiểm toán có thể thực hiện dưới hai hình 
thức: phán quyết như một quan toà hoặc tư vấn – 
điều đó tùy thuộc vào từng loại hình kiểm toán và từng điều kiện các quốc gia thì ở 
khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài ngân sách nhà nước, kiểm toán không có 
quyền phán quyết như một toà án mà chỉ có một hình thức duy nhất là tư vấn. 
Ngày nay, ngoài việc tư vấn trong lĩnh vực tài chính kế toán về các vấn đề kiểm 
toán viên phát hiện trong quá trình kiểm toán, các công ty kiểm toán còn phát triển 
chức năng tư vấn này sang nhiều lĩnh vực chuyên sâu hơn như: tư vấn thuế, tư vấn 
đầu tư, tư vấn xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ 
Hầu hết các công ty kiểm toán đều có bộ phận riêng chuyên chịu trách nhiệm về 
mảng tư vấn, bộ phận này gồm các nhân viên được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực 
nào đó. Ví dụ: được đào tạo chuyên sâu về thuế sẽ đảm nhận chức năng tư vấn 
thuế Và thực tế, dịch vụ tư vấn đã chiếm một tỷ lệ doanh thu khá lớn trong các 
công ty kiểm toán. 
Như vậy, chúng ta thấy, chức năng bày tỏ ý kiến chính là việc đưa ra kết luận của 
kiểm toán viên về chất lượng thông tin, tính pháp lý và tư vấn qua xác minh. Sản 
phẩm của việc bày tỏ ý kiến về chất lượng thông tin được thể hiện trên “Báo cáo 
kiểm toán” và sản phẩm của việc đưa ra ý kiến tư vấn thể hiện trên “Thư quản lý”. 
 Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán 
16 TXKTKI03_Bai1_v1.0015105212 
1.4. Ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán trong quản lý 
Thứ nhất, kiểm toán tạo niềm tin cho “những người quan tâm” đến tình hình tài chính 
của doanh nghiệp. 
Ngày nay, trong cơ chế thị trường, những người quan tâm không chỉ có chủ sở hữu mà 
mở rộng ra rất nhiều đối tượng cần đến thông tin tài chính để phục vụ cho những mục 
đích khác nhau và kiểm toán góp phần tạo niềm tin cho họ. Những người quan tâm 
đến thông tin tài chính bao gồm: 
 Một là, các cơ quan nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền 
kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế nói chung của mình với 
mọi thành phần kinh tế, với mọi hoạt động xã hội. 
Ví dụ: Nhà nước cần thông tin chính xác về tình hình và kết quả hoạt động kinh 
doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sau đó đưa ra chính sách hỗ trợ để giúp 
loại hình doanh nghiệp này phát triển. 
Hoặc: nhà nước cần biết các thông tin trung thực về tình hình tài chính của các loại 
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế để đưa ra hệ thống chính sách về thuế 
 Hai là, các nhà đầu tư cần có thông tin tin cậy để có hướng đầu tư đúng đắn, điều 
hành sử dụng vốn và phân phối kết quả đầu tư. 
Trong cơ chế thị trường, do tính đa phương hóa đầu tư và đa dạng hóa các thành 
phần kinh tế nên các nhà đầu tư không chỉ giới hạn ở Nhà nước như trước kia mà 
mở rộng ra các thành phần kinh tế khác như các nhà đầu tư tư nhân và các nhà đầu 
tư nước ngoài. Các nhà đầu tư này cần có những thông tin trung thực để quyết định 
có đầu tư vào đơn vị hay không và kiểm toán mang lại niềm tin cho họ. Thông tin 
tài chính đã được kiểm toán sẽ khiến các nhà đầu tư tin tưởng hơn vì nó đã được 
kiểm tra bởi bộ phận độc lập. 
 Ba là, các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lý khác cần có thông tin 
trung thực để điều hành, quản lý hoạt động kinh doanh. 
Đối với các nhà quản trị, họ không những chỉ 
cần thông tin trung thực trên bảng khai tài chính 
mà còn cần thông tin trung thực của từng bộ 
phận kinh doanh. 
Ví dụ: Doanh nghiệp kinh doanh 2 mặt hàng, 
các nhà quản trị sẽ cần thông tin trung thực về 
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh từng loại 
mặt hàng để quyết định sẽ mở rộng đầu tư vào 
mặt hàng nào và thu hẹp mặt hàng nào. Các thông tin trung thực đó có được từ 
hoạt động kiểm toán. 
 Bốn là, người lao động cần có thông tin tin cậy về kết quả kinh doanh, về thực 
hiện các chính sách lương và bảo hiểm 
Người lao động cũng cần biết xem mình đang làm việc cho doanh nghiệp như thế 
nào, tương lai, triển vọng của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của mình. 
Nếu như doanh nghiệp có lãi thì nhân viên sẽ được thưởng nhiều hơn. Và ngay cả 
quỹ lương của cán bộ công nhân viên cũng được tính căn cứ trên kết quả hoạt 
 Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán 
TXKTKI03_Bai1_v1.0015105212 17 
động kinh doanh (doanh thu, sản lượng), do đó, người lao động cũng cần biết 
những thông tin trung thực về tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị. 
 Năm là, khách hàng, nhà cung cấp và những người quan tâm khác cần có 
thông tin trung thực để quyết định có tham gia hợp tác kinh doanh, mua bán hàng 
hóa cùng hay không 
Khách hàng cần thông tin trung thực để biết nguồn cung cấp hàng cho mình có ổn 
định hay không, chất lượng có đảm bảo hay không Nhà cung cấp quan tâm 
nhiều tới tình hình tài chính, khả năng thanh toán của doanh nghiệp để quyết định 
có tiếp tục cung cấp hàng hóa hay không Những thông tin trung thực này có 
được qua kết quả của hoạt động kiểm toán. 
Các nhà quan tâm này không có khả năng và không cần thiết phải trực tiếp đi kiểm 
tra tính trung thực, hợp lý của các thông tin tài chính mà kiểm toán chính là người 
mang lại niềm tin cho họ. 
Đây là ý nghĩa đầu tiên và quan trọng nhất, nó gắn liền với sự ra đời và phát triển 
của kiểm toán. 
Thứ hai, kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp hoạt động tài 
chính kế toán nói riêng và hoạt động quản lý nói chung. 
Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính, đều 
bao gồm những mối quan hệ đa dạng, luôn biến đổi 
và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. 
Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải 
quyết tốt các mối quan hệ trên, không chỉ cần có 
định hướng đúng và thực hiện tốt mà còn cần 
thường xuyên soát xét việc thực hiện để hướng các 
nghiệp vụ vào quỹ đạo mong muốn. Hơn nữa, chính 
định hướng và tổ chức thực hiện cũng chỉ được thực 
hiện tốt trên cơ sở những bài học từ soát xét và uốn 
nắn thường xuyên những lệch lạch trong quá trình thực hiện. 
Hoạt động tài chính lại bao gồm nhiều mối quan hệ về đầu tư, về kinh doanh, về phân 
phối, về thanh toán. Tính phức tạp của hoạt động này càng tăng lên bởi quan hệ chặt 
chẽ giữa các quan hệ tài chính với lợi ích con người. Trong khi đó, thông tin kế toán là 
sự phản ánh của hoạt động tài chính. Ngoài việc chứa đựng những phức tạp của các 
quan hệ tài chính, thông tin kế toán còn là sản phẩm của quá trình xử lý thông tin bằng 
phương pháp kỹ thuật rất đặc thù. Do đó, nhu cầu hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố 
nền nếp trong quản lý tài chính càng có đòi hỏi thường xuyên và ở mức độ cao hơn. 
Đặc biệt nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế trong đó có các quan 
hệ tài chính, chế độ kế toán thay đổi nhiều lần cùng với sự "bung ra" của các thành 
phần kinh tế và các hoạt động kinh doanh khác nhau ở các tổ chức kinh tế xã hội khác 
nhau. Trong khi đó, ở nhiều nơi và nhiều lúc, công tác kiểm tra, kiểm soát chưa 
chuyển hướng kịp thời, dẫn tới tình trạng kỷ cương bị buông lỏng; nhiều kỷ cương 
trong kế toán, tài chính đã được tạo lập trước đây cũng bị phá vỡ, nhiều tổ chức kế 
toán và đơn vị kinh doanh ngoài quốc doanh không làm kế toán Thực tiễn đó, đặc 
biệt ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, đã nảy sinh quan điểm cho rằng chưa thể 
 Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán 
18 TXKTKI03_Bai1_v1.0015105212 
tiến hành cải cách công tác kiểm tra trong khi chưa triển khai toàn diện và rộng khắp 
công tác kế toán. Tuy nhiên kinh nghiệm thực tế đã chỉ rõ, chỉ có triển khai tốt hơn 
công tác kiểm toán mới có thể nhanh chónh đưa công tác tài chính kế toán đi vào nền 
nếp. Thực tiễn đó đã chứng minh rõ tác dụng hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền 
nếp tài chính kế toán của kiểm toán. 
Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. 
Có thể thấy đặc biệt rõ tác dụng của vai trò tư vấn 
này trong kiểm toán hiệu năng và hiệu quả quản lý. 
Vai trò này phát huy đặc biệt rõ trong các đơn vị 
được kiểm toán thường xuyên. Trong điều kiện đó, 
việc tích luỹ kinh nghiệm qua thực tiễn sẽ là cơ sở 
cho những bài học cho tương lai. Điều đó cũng có 
thể giải thích từ tính phức tạp và đa dạng trong việc 
giải quyết các mối quan hệ kinh tế – xã hội trong 
đơn vị được kiểm toán. Đặc biệt trong những bước chuyển đổi cơ chế kinh tế, có 
nhiều quan hệ mới, phức tạp nảy sinh. Trong cả nhận thức lẫn thực tiễn, có thể thấy rõ 
tính phức tạp của các quan hệ này từ chính những đặc trưng của kinh tế thị trường: 
Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng, công bằng xã hội, phúc lợi xã hội không còn đủ các 
điều kiện thuận lợi duy trì và phát triển trong cơ chế thị trường thuần tuý. Cạnh tranh 
là quy luật đạt tới lợi nhuận, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, cạnh tranh và bình 
đẳng trước pháp luật. Kinh tế mở cửa, đa phương hóa, đầu tư và mở rộng, các quan hệ 
quốc tế có lợi ích kinh tế trực tiếp song không phải mọi quan hệ này đều chỉ đơn thuần 
về kinh tế Đặc biệt trong điều kiện mới chuyển đổi cơ chế kinh tế, hệ thống pháp lý 
chưa hoàn chỉnh, kinh nghiệm và chuyên gia giỏi về quản lý chưa có nhiều. Trong 
điều kiện đó, duy trì kỷ cương và bảo đảm phát triển đúng hướng và chỉ có thể có 
được trên cơ sở xây dựng đồng bộ và tổ chức thực hiện tốt kiểm toán trên mọi lĩnh 
vực để trên cơ sở tích luỹ kinh nghiệm từ xác minh đi đến tư vấn cho mọi lĩnh vực 
hoạt động. 
Chính vì thế mà chúng ta thấy, sản phẩm của mỗi cuộc kiểm toán không chỉ có báo 
cáo kiểm toán trên đó trình bày ý kiến độc lập của kiểm toán viên về đối tượng kiểm 
toán mà còn kèm theo thư quản lý để đưa ra các vấn đề tư vấn của kiểm toán viên để 
góp ý cho đơn vị hoàn thiện hơn nữa công tác tài chính kế toán nói riêng và công tác 
quản lý nói chung. 
 Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán 
TXKTKI03_Bai1_v1.0015105212 19 
Tóm lược cuối bài 
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở những 
nguồn lực xác định nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. 
Kiểm tra, kiểm soát không phải là một giai đoạn của quản lý mà nó là một chức năng của quản lý. 
Các yếu tố ảnh hưởng tới kiểm tra, kiểm soát: cấp quản lý; loại hình hoạt động; hình thức sở 
hữu; truyền thống văn hóa và điều kiện kinh tế xã hội. 
Các quan điểm khác nhau về kiểm toán: 
 Quan điểm truyền thống về kiểm toán. 
 Quan điểm về kiểm toán theo thời điểm phát sinh. 
 Quan điểm hiện đại về kiểm toán. 
Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần kiểm toán bằng hệ thống 
phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán 
viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. 
Chức năng kiểm toán: xác minh và bày tỏ ý kiến. 
 Theo thông lệ quốc tế, chức năng xác minh được cụ thể hóa thành các mục tiêu và tùy theo 
đối tượng hay loại hình kiểm toán, hệ thống mục tiêu cụ thể cũng khác nhau. 
 Tùy theo từng lĩnh vực và điều kiện của từng quốc gia, chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện 
khác nhau: Bày tỏ ý kiến dưới hình thức phán xử như một quan toà; Bày tỏ ý kiến dưới hình 
thức tư vấn. 
Ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán: tạo niềm tin cho “những người quan tâm” đến tình hình tài 
chính của doanh nghiệp; hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp hoạt động tài chính kế toán 
nói riêng và hoạt động quản lý nói chung; góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. 
 Bài 1: Bản chất, chức năng và ý nghĩa của kiểm toán 
20 TXKTKI03_Bai1_v1.0015105212 
Câu hỏi ôn tập 
1. Phân tích sự khác biệt của kiểm tra – kiểm soát theo cấp quản lý? 
2. Phân biệt đối tượng kiểm toán và khách thể kiểm toán? 
3. Đối tượng nào quan tâm đến tình hình tài chính? Ai là người chuẩn bị các báo cáo tài chính 
cho những người sử dụng bên ngoài? 
4. Phân biệt kế toán và kiểm toán? 
5. Giải thích tại sao trong khu vực kinh doanh chức năng bày tỏ ý kiến luôn được thể hiện dưới 
hình thức tư vấn trong khi ở khu vực công chức năng bày tỏ ý kiến có thể thể hiện dưới hình 
thức tư vấn hoặc hình thức phán xét? 
6. Phân biệt kiểm toán hiệu quả và kiểm toán hiệu năng? Nêu ví dụ minh họa từng loại hình này? 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_kiem_toan_can_ban_bai_1_ban_chat_chuc_nang_va_y_ng.pdf