Ba vị Thành hoàng thời Lý trên đất Thọ Xuân qua tư liệu thần tích
Thờ cúng Thành hoàng làng là tín ngưỡng phổ biến ở các làng xã người Việt.
Thành hoàng của các làng Việt cổ không chỉ là vị thần bảo vệ thành và hào của làng, mà còn
là người có công với dân, với nước trong các cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm
hoặc là người có công lập ra làng hay truyền dạy một nghề nào đó cho dân làng. Thọ Xuân
là vùng đất lịch sử, đất quý hương của triều đại Hậu Lê, vậy nên việc xuất hiện và tồn tại các
vị Thành hoàng làng có công trạng với nhân dân và các triều đại phong kiến là vấn đề mà
chúng tôi muốn tìm hiểu đặc biệt là ba vị Thành hoàng làng thời Lý trên vùng đất này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Ba vị Thành hoàng thời Lý trên đất Thọ Xuân qua tư liệu thần tích", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ba vị Thành hoàng thời Lý trên đất Thọ Xuân qua tư liệu thần tích
sang, 83 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI phú quý ăn ở tâm đức, thường giúp đỡ những người bần cùng khốn khó không hề mảy may vì chút lợi cho mình mà hại đến người. Lúc bấy giờ, hai vợ chồng hay đi thuyền làm nghề buôn bán. Cả hai vợ chồng đến tuổi 30 cũng chỉ sinh được 5 người con gái mà chưa sinh được một mụn con trai. Vì vậy, họ thường hay đi lễ bái cầu đảo ở các chùa để mong được thần thánh ban cho phúc lành. Bỗng đâu năm ấy ở Bắc quốc gặp cơn đại loạn, giặc dã quấy rối cướp bóc đã nhiều năm. Hai vợ chồng đều suy nghĩ là người ta sống ở trên đời chỉ muốn có con trai hiếu tử nối dõi tông đường, vì vậy nên thường hay lễ bái cầu phúc cầu tự. Sau đó hai vợ chồng lại bàn nhau, gia đình mình nên tìm vùng đất khác, dời nhà đến đó ở để sinh sống. Từ đó, vợ chồng con cái dắt nhau đi tìm đất ở, và cứ đi thẳng tới vùng địa giới thuộc đạo Thanh Hoa rồi lưu trú lại ở vùng đất này được một, hai tháng. Một điều bất hạnh kỳ lạ đã xảy ra là cả 5 người con gái đều bị ốm và qua đời. Hai vợ chồng khóc lóc và than vãn: Vợ chồng chúng tôi vốn là người sinh sống hiền lương nhưng vì sao tai nạn lại giáng đến với chúng tôi như vậy! Từ đó hai vợ chồng lại càng làm những việc phúc đức nhân nghĩa và rủ nhau đi tìm vùng đất lành, thành tâm xin được dựng một ngôi chùa để ngày đêm hương khói tụng kinh gửi tấm thân vào Phật đạo. Hai vợ chồng cứ đi và đến đất trang Phúc Hà, thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên thì mặt trời đã xế bóng. Họ thấy một ngôi chùa nhỏ bèn ngủ lại ở ngôi chùa này. Đêm ấy, cả hai vợ chồng đều nằm mơ nghe có người nói văng vẳng bên tai: Thiên đình phó thác cho ta truyền cho các người rằng: Họ Chu các người biết rằng: “Phúc ở Phương Hà”. Nói xong thì thần biến mất. Hai vợ chồng đều biết rằng đó là giấc mộng, rồi họ than vãn bàn bạc thâu đêm. Đến sáng ngày hôm sau, hai vợ chồng đi hỏi thăm bà con trang này tên gọi là trang gì? Lúc này có một cụ già nói rằng trang này tên gọi chính là trang Phúc Hà. Vợ chồng đều thấy rằng đêm qua trời báo mộng đây là vùng đất thiêng, đất lành. Liền trong ngày hôm đó, hai vợ chồng cầu xin các cụ phụ lão trong trang để được bỏ một gia tài ra lập một ngôi chùa nhỏ gọi là ngôi chùa Phúc để làm điềm phúc, mong cầu thần phật che chở phù hộ cho những ước vọng của dân. Nhân dân trong trang đều vui vẻ cho phép hai vợ chồng được tìm mảnh đất đẹp nhất, thiêng nhất để xây dựng chùa. Sau đó ít lâu, ngôi chùa được xây dựng xong gọi tên là chùa Phúc. Cả hai vợ chồng ở lại chùa ngày đêm hương khói tụng kinh niệm Phật. Quả nhiên, ngôi chùa rất thiêng cho nên được gọi là Linh Phúc tự. Được một năm sau, bà vợ mộng thấy một vị quan áo mũ chỉnh tề tay cầm một cành quan âm, chưa kịp hỏi chuyện gì thì bỗng nhiên tỉnh giấc. Bà kể chuyện với chồng, ông mừng rỡ cho đây là điềm lành tốt, ông càng dốc lòng làm điều thiện ngày đêm đèn hương cầu cúng, sau khi được 100 ngày thì bà có thai, đến khi đủ ngày, đủ tháng thì bà hạ sinh được một con trai. Trên trán cậu bé có vết chàm đen hình chữ Kim Ngô, mặt mũi khô ngô, tuấn tú, thân hình vạm vỡ, tai to rũ chấm vai, mặt đỏ như mặt trời, da sáng, mắt đen khác với người thường. Hai vợ chồng vui sướng chăm sóc nuôi dạy con (ngày sinh là ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão). Thấm thoát thoi đưa, con trai được 5 tuổi tỏ ra thông minh, tài giỏi hơn người lại hiểu cả tri thức địa lý, thiên văn, quả thực là một người đa tài. Đến năm con trai được 11 tuổi, ông dựa vào những bẩm tính thiên tài của con mà đặt tên là Kim Ngô, mong sau này tài danh của con trai sẽ làm rạng rỡ cho nước nhà. 84 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Khi đi học, Kim Ngô giỏi cả văn chương, lại giỏi cả tri thức của Bách gia (tri thức của 100 trường phái). Vào năm ấy, cả hai vợ chồng bàn bạc làm lễ tạ ơn bà con trong trang để trở về Bắc quốc, còn tất cả gia tài, người hầu và ngôi chùa Phúc đều bàn giao lại cho nhân dân. Chỉ có hai vợ chồng và cậu con trai dắt nhau trở về Bắc quốc. Ba bốn năm sau, vào ngày 9/3 ông bố bị ốm rồi qua đời và được đem mai táng vào huyệt chính ở gò đầu hồ của quê nhà. Họa vô đơn chí, không đầy ba năm sau, vào ngày 23 tháng giêng, bà mẹ bị ốm và qua đời, được làm lễ mai táng tại huyệt chính nét chữ Vương của quê nhà. Trong thời gian ở tang 3 năm, theo quan niệm của người Việt Nam: tang trung bất ngữ anh hùng chí (trong tang không nói tới chí anh hùng). Dù Kim Ngô là một chàng trai tinh thông, giỏi giang toàn diện nhưng không chịu đi thi, đối với mọi người đều tôn trọng nhường nhịn vì vậy mà được kính nể. Năm Kim Ngô lên 19 tuổi, giặc Ai Lao thấy nhà Lý suy yếu bèn tích lũy lương thảo để khởi binh xâm lược. Vua Lý biết tin lấy làm lo sợ, đem quân đi đánh, nhưng một hai năm mà không đánh thắng được quân Ai Lao. Kim Ngô biết đất nước có giặc ngoại xâm, chàng suy nghĩ và than rằng: Nước Nam chính là đất nước mà ta sinh ra đời, nay biết giặc đã đến quấy nhiễu làm sao ta có thể điềm nhiên mặc kệ. Kẻ sĩ sinh ra trên cõi đời này nếu không để tiếng thơm cho đời sau thì sẽ làm gì đây? Thế là chàng liền một mình đi về nước Nam. Chàng về đến đất thiêng thuộc trang Phúc Hà, huyện Thụy Nguyên để cầu nguyện rồi chiêu tập nhân dân trong thôn trang lại, lựa chọn nhân tài cùng nhau giúp nước. Lúc này, nhân dân trang Phúc Hà kéo đến nguyện theo dưới trướng chàng Kim Ngô để làm gia thần, sau đó chàng Kim Ngô tâu xin nhà vua được đem quân đi giúp nhà vua đánh dẹp giặc. Vua thấy tướng mạo chàng thanh niên thì cả mừng, cho mời đến yết kiến, và phong cho chàng tước lộc ngay nhưng chàng từ chối không chịu nhận, chàng chỉ tự nguyện xin được đi đánh giặc. Khi tiến quân đến chỗ giặc đóng, chàng đem hết tài trí ra giáp chiến với giặc một trận, bọn giặc nhìn thấy trên trán có hai chữ Kim Ngô thì đều bảo nhau rằng trời giúp đỡ nhà Lý nên đã ban cho một tướng đại tài. Vì vậy, chúng đều quy thuận rút quân về nước. Đất nước trở lại thái bình, nhà vua lấy làm mừng rỡ liền cho vời về triều, phong cho tước lộc. Chàng Kim Ngô lại từ chối không nhận mà chỉ xin nhà vua cho được trở về quê hương nơi chàng sinh ra là trang Phúc Hà để mở yến tiệc khoan đãi quân lính và nhân dân. Chàng lại tâu với nhà vua: trang Phúc Hà là vùng đất thiêng xin ban cho trang Phúc Hà sau này là ấp thang mộc. Nhà vua liền chuẩn tấu. Nhà vua lại ban cho chàng quốc tính họ Lý gọi là Lý Kim Ngô, đồng thời cùng với chàng về quê, mời dân trong làng đến để khoan đãi. Trong bữa yến tiệc, chàng Kim Ngô đọc bài thơ: Phong vân phúc hội luyện tinh thần Di ngã lí tri trợ ngã dân Tống thị yến trung hoan ẩm ngữ Tình lưu phúc địa ức niên xuân. Dịch nghĩa: Hột phúc mây rồng gặp nhau càng hun đúc thêm tinh thần ta Dân là người dạy ta hiểu được sự lý và cũng là người giúp đỡ ta 85 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Ta tặng cho dân những lời hân hoan trong bữa yên tiệc vui vầy Tình ta để lại cho trang Phúc địa vạn niên xuân. Đọc xong bốn câu thơ, ông từ từ dạo bước du ngoạn cảnh phúc địa, rồi tham quan vùng dân cư trang ấp. Bất giác, khi ông đi đến đầu trang, tự nhiên trời đất tối sầm, mưa gió ào ào, từ đám mây trên trời có một cây trượng bằng đồng rơi trước mặt ông, thế rồi ông tạ thế ngay tại đó. Ngày ông mất là ngày 21 tháng 11. Nhân dân trong trang thương xót làm lễ tang viếng ông và nhìn thấy vết tích cây đồng trượng, bèn tâu lên nhà vua. Nhà vua xót thương vị công thần có công với nước bèn cho dân làm lễ tang điếu phúng, mai táng tại mảnh đất quê nhà và lập đền, xây lăng để phụng thờ hương hỏa. Vua còn ban cho nhân dân trang này 44 quan tiền, miễn cho lệ phải đóng quân lương trong 3 năm, phong mỹ từ cho thần là “Thượng đẳng phúc thần Đại Vương” cùng hưởng phúc với nước nhà. Hai tên húy Kim Ngô nhất thiết phải kiêng cấm và khi hành lễ thì dùng màu vàng không được mặc sai sắc phục. Tế ngày sinh vào ngày 12/10. Đồ lễ dùng thịt lợn, xôi, rượu và ca hát 5 ngày. Lễ tết vào ngày 14 tháng 2 đồ lễ dùng thịt bò, xôi, rượu, ca hát. Cúng tế ngày mất là ngày 21 tháng 11 đồ lễ dùng thịt bò, xôi, rượu ngày lễ chính dùng lễ tam sinh, lễ ở chùa thì mặc áo nâu, dùng kiệu khiêng linh vị về chùa lễ 7 ngày rồi rước về đền. Đền thờ lập bên cạnh lăng tọa quý đinh hương phía tiền là sao Mộc, án phía sau gối sao Kim vùng này là vùng cấm địa. Ngày nay, trên địa bàn làngPhú Xá, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân vẫn còn đền thờ Thành hoàng làng Lý Kim Ngô. Các nghi lễ thờ cúng từ xưa vẫn còn lưu lại và được nhân dân thành kính tế lễ hàng năm. Tuy nhiên, sắc phong từ thời xưa đã bị thất lạc. Đến năm Tự Đức thứ 19 (1856), dân làng tìm thấy ở xã Bình Quý, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây có sự tích của thần còn để lại được, cho nên sửa lễ rước thần tích về lưu giữ và phụng thờ. 2.3. Thần tích về Thành hoàng Lê Phụng Hiểu Bên cạnh hai vị Thành hoàng làng mà tác giả nêu ở trên còn có thần tích về Lê Phụng Hiểu - Đô thống thượng Tướng quân, danh thần thời Lý. Với công trạng to lớn, Lê Phụng Hiểu được nhân dân thờ phụng ở nhiều nơi, và xã Xuân Khánh, huyện Thọ Xuân ngày nay cũng là một nơi thờ thần không thể không đề cập đến. Lê Phụng Hiểu quê ở hương Băng Sơn, tổng Dương Sơn, huyện Cổ Đằng, lộ Thanh Hóa, nay thuộc xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông là người có sức khỏe phi thường, giỏi võ nghệ, thuở nhỏ từng một mình áp đảo số đông trai tráng trong làng, khiến họ khuất phục và nghe theo ông sắp đặt. Năm 1044, quân Chiêm Thành sang xâm lược nước ta, Đô thống Lê Phụng Hiểu hộ giá nhà vua đi đánh giặc. Ông làm tướng tiên phong, lập công lớn, danh tiếng lừng lẫy. Khi chiến thắng trở về, nhà vua định công, phong thưởng. Xét thấy quyền lực, bạc vàng đều là phù du, ông liền nói với vua: “Thần không muốn thưởng tước, cũng không dám tham lam công khố, chỉ xin cho về ở núi Băng Sơn, ném dao lớn đi xa, dao rơi đến chỗ nào trong đất công thì xin ban cho làm sản nghiệp”. 86 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Vua nghe theo. Phụng Hiểu lên núi, ném dao xa hàng chục dặm rơi xuống hương Đa Mi (làng Vậy hay gọi theo dân gian là làng Vạy, tức làng Tam Lư, nay là thuộc xã Xuân Khánh). Ông cho dân khai hoang lập ấp và đặt tên là Cao Vị trang. Vua cũng tha thóc thuế cho ruộng ném dao ấy. Tục truyền rằng, Phụng Hiểu vốn sức khỏe hơn người. Đứng trên núi Băng Sơn, con dao trong tay ông ném ra có thể bay qua cả kinh thành Thăng Long, nếu ông ném hết sức thì đất đai nhà vua sẽ là của ông cả. Từ đó, người vùng Thanh Hóa gọi ruộng thưởng công là “ruộng thác đao”. Sau đó, ông còn nhiều lần cầm quân đi đánh giặc Chiêm Thành và đều chiến thắng mới trở về. Ông sống hết lòng trung thành với vua, biết điều gì có lợi cho dân cho nước đều bàn với vua. Sau khi ông mất (thọ 77 tuổi), nhân dân nhiều nơi đã lập đền thờ ông. Cứ đến dịp 6/3 âm lịch, làng mở hội rước thần, có đủ các trò như đánh đu, cờ người, tổ tôm, chơi bài điếm, hát bội, đốt cây bông, cây pháo buổi tối. Đình làng thờ ông kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc, trong cùng là chính tẩm nơi để hai long ngai. Long ngai của ngài Lê Phụng Hiểu để chính giữa ngoảnh ra hướng bắc, hướng ra sông Chu. Long ngai của ngài Tam lộ Đại Vương ngoảnh về phía đông. Ở giữa gọi là tòa Tam Cung, hai bên có hai thần Mã: Hồng Mã, Bạch Mã. Tiếp đến là tòa trung đình là nơi đặt các đồ thờ. Hai bên có hai ông hạc đứng trên rùa đá chầu. Ngoài cùng là tiền đường gồm 7 gian đồ sộ, gỗ làm đình là loại gỗ tốt như lim, sến, trò chỉ Đình kiến trúc theo kiểu chồng rường giá chiêng tiền kẻ hậu bẩy, chạm trổ long, ly, quy, phượng rất tinh xảo. Tuy nhiên, do chiến tranh, lũ lụt, ngôi đình cổ đã không còn, nhân dân trong làng xây dựng tạm một gian trên nền đất đã tồn tại trong lịch sử để lấy nơi thờ cúng. 3. Tạm kết Ở Việt Nam, mỗi vị Thành hoàng đều có một thần tích và thần phả riêng gắn liền với những đặc điểm, điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của làng. Loại trừ những yếu tố tâm linh, trên cơ sở nghiên cứu các thần tích mà chúng tôi tiếp cận được có thể thấy rằng phần lớn tư liệu về lịch sử văn hóa thời Lý ở Thọ Xuân chỉ còn ở dạng truyền miệng trong dân gian. Qua ba bản thần tích về ba vị Thành hoàng thời Lý trên đất Thọ Xuân, xin được rút ra một vài vấn đề sau: 1. Qua khảo sát bước đầu về 3 vị Thành hoàng thời Lý từ tư liệu thần tích còn lại trên đất Thọ Xuân ngày này, có thể nói họ là những nhân vật huyền thoại, nhân vật lịch sử đã được cộng đồng tôn vinh, thờ phụng lâu đời trong dân gian. Điều đó cũng khẳng định, những dấu tích lịch sử, văn hóa về quá trình dẹp giặc đối với các lân bang Chiêm Thành, Ai Lao của nhà Lý vẫn được bảo lưu qua các “mãnh vỡ” hay “hóa thạch văn hóa” thông qua tục thờ cúng ở xứ Thanh, 3 vị thành hoàng trên ở Thọ Xuân là những dẫn dụ điển hình chứng tỏ sức sống và ý thức sâu đậm của nhân dân đối với lịch sử dân tộc trong thế kỷ thứ 11. 2. Tìm hiểu tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng ở huyện Thọ Xuân và các làng xã khác trong tỉnh Thanh Hóa, chúng tôi nhận thấy, các thần tích này đều là các sự tích thờ cúng đã được nhà Lê tập hợp, hoàn chỉnh năm 1572 trên cơ sở hợp thức hóa các thần linh đã được làng xã phụng thờ, khá giống nhau và đều mang đậm phong cách của truyền thuyết, thể hiện 87 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI các đặc điểm: quá trình hóa - sinh dị thường; được nhà vua biết đến, cử đi đánh giặc và lập chiến thắng, được nhà vua phong thưởng; vị tướng thắng trận trở về; triều đình cho dân làng lập đền thờ để cúng tế Qua những thần tích nêu trên, có thể thấy, các Thành hoàng thời Lý được thờ trên đất Thọ Xuân là lớp sớm của những truyền thuyết về tôn vinh những người anh hùng diệt giặc cứu nước. 3. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân Thọ Xuân đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Cuộc kháng chiến chống Tống, bình Chiêm tuy chưa rõ ràng ở Thọ Xuân, nhưng đến thời Lý nó đã thể hiện một phần qua những bản thần tích vừa đề cập. Tài liệu tham khảo [1]. Thần tích Thành hoàng làng Yên Lược (bản dịch của Hoàng Thư). [2]. Thần tích trang Phúc Hà (bản dịch của Trịnh Ngữ). [3]. Thần tích Thành hoàng Lê Phụng Hiểu (bản dịch của Hoàng Hùng). [4]. Tư liệu điền dã khảo sát tại địa phương. THE THREE TUTELARY GODS UNDER LY DYNASTY IN THO XUAN DISTRICT Le Xuan Son, M.A Abstract: Worshiping village tutelary gods is a popular belief in Vietnamese villages. The tutelary gods of ancient Vietnamese villages are not only gods to protect the village, but also famous historical figures with great merits in the resistance against the invaders. The village's tutelary god is also the founder of the village or a craftsmanship teacher of local people... Tho Xuan is a sacred historical land under Le Dynasty with the existence of many village tutelaries with great merits to local people and the feudal court. Therefore, the article focuses on studying the three tutelary gods under Ly Dynasty in this land. Key words: tutelary god, Ly Dynasty, Tho Xuan district. Người phản biện: GVC. NCS. Hà Đình Hùng (ngày nhận bài 20/2/2019; ngày gửi phản biện 22/2/2019; ngày duyệt đăng 02/4/2019). 88
File đính kèm:
- ba_vi_thanh_hoang_thoi_ly_tren_dat_tho_xuan_qua_tu_lieu_than.pdf