Áp dụng mô hình quỹ phát triển khoa học và công nghệ tại các trường đại học khối công nghệ ở Việt Nam
TÓM TẮT
Nguồn tài chính cho KH&CN đang là nút thắt trong quá trình phát triển
KH&CN của các trường đại học trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Nghiên cứu này trình bày xu hướng chung trên thế giới và Việt Nam về việc đa
dạng hóa nguồn tài trợ các hoạt động phát triển KH&CN tại các trường đại học.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra nhu cầu thành lập quỹ phát triển KH&CN ở các tổ
chức giáo dục đại học Việt Nam thông qua phân tích số liệu điều tra do Hiệp hội
các trường đại học và cao đẳng Việt Nam phối hợp với trường Đại học Bách khoa
Hà Nội thực hiện. Kết quả điều tra cho thấy, hoạt động KH&CN tại các tổ chức
giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
nguyên nhân cản trở sự phát triển và sự cần thiết của việc thành lập quỹ phát
triển KH&CN ở các trường đại học. Dựa vào kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất
một số khuyến nghị để triển khai thành công mô hình quỹ KH&CN tại các trường
đại học ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng mô hình quỹ phát triển khoa học và công nghệ tại các trường đại học khối công nghệ ở Việt Nam
thiếu cơ quan làm đầu mối đề huy động nguồn lực tài chính từ các nguồn bên trong và ngoài trường dành cho hoạt động NCKH và PTCN 338 51 23 3 0 81,4% 12,3% 5,5% 0,7% 0,0% Thiếu hụt tài chính là yếu tố cản trở lớn nhất trong thực hiện các hoạt động NCKH và PTCN tại trường 352 46 14 2 1 84,8% 11,1% 3,4% 0,5% 0,2% Cần xây dựng một quỹ tập trung dành cho hoạt động NCKH và PTCN của trường 74 275 66 0 0 17,8% 66,3% 15,9% 0,0% 0,0% Kết quả NCKH và PTCN đạt được mục tiêu do Trường đề ra 29 46 49 291 0 7,0% 11,1% 11,8% 70,1% 0,0% Kết quả NCKH và PTCN phù hợp với năng lực của Trường 50 54 311 0 0 12,0% 13,0% 74,9% 0,0% 0,0% Số lượng sản phẩm khoa học có chất lượng tốt được trường công bố trong 5 năm vừa qua có xu hướng tăng lên 53 47 56 259 0 12,8% 11,3% 13,5% 62,4% 0,0% Các sản phẩm từ hoạt động NCKH và PTCN của trường được ứng dụng tốt trong thực tế 0 88 65 262 0 0,0% 21,2% 15,7% 63,1% 0,0% Dự án NCKH và PTCN của giảng viên không thực hiện được do không nhận được nguồn kinh phí hỗ trợ từ Trường 183 126 82 22 2 44,1% 30,4% 19,8% 5,3% 0,5% Giảng viên thiếu kinh phí cho NCKH 182 163 65 5 0 43,9% 39,3% 15,7% 1,2% 0,0% Ít nguồn tài trợ đối với lĩnh vực nghiên cứu đang theo đuổi của các giảng viên 208 109 71 27 0 50,1% 26,3% 17,1% 6,5% 0,0% Giảng viên khó tiếp cận với các nguồn tài trợ cho NCKH và PTCN 189 123 75 28 0 45,5% 29,6% 18,1% 6,7% 0,0% 3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, một cuộc điều tra khảo sát về vai trò của quỹ phát triển KH&CN đã được thực hiện với sự kết hợp giữa Ban Khoa học và dịch vụ với Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng Việt Nam. Khảo sát được tiến hành từ ngày 16/5 đến 25/6/2018, với 115 đại học có đào tạo các ngành liên quan đến công nghệ ở Việt Nam và chưa có quỹ phát triển KH&CN. Khảo sát được thực hiện thông qua hai hình thức: khảo sát trực tiếp và gửi bảng hỏi qua thư điện tử và thư tín. Đối tượng khảo sát gồm nhóm các nhà quản lý và nhóm cán bộ giảng viên. Bảng khảo sát được thiết kế gồm phần câu hỏi chung và phần câu hỏi riêng cho cả hai nhóm đối tượng. Phần câu hỏi chung gồm: thông tin cá nhân, số lượng đơn vị liên quan đến quy trình thực hiện hoạt động nghiên cứu và phát triển KH&CN, chi cho các hoạt động này trong tổng ngân sách hàng năm của trường. Phần câu hỏi riêng cho cán bộ quản lý gồm 37 câu hỏi yêu cầu đánh giá đối với các nhận định về hoạt động nghiên cứu và phát triển KH&CN của trường. Các câu hỏi đánh giá đối với cả hai nhóm đối tượng được xây dựng theo thang đo Likert 5 mức độ. Bảng hỏi được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu trước đây có liên quan đến các hoạt động nghiên cứu và phát triển KH&CN tại trường đại học. Khảo sát trực tiếp được thực hiện thông qua Hội thảo khoa học quốc gia “Hệ thống giáo dục mở trong bối cảnh tự chủ giáo dục và hội nhập quốc tế” diễn ra ngày 16/5/2018. Các đối tượng liên quan đến nghiên cứu được xác định khi đăng ký danh sách đại biểu và được phát bảng hỏi kèm theo tài liệu hội thảo, yêu cầu gửi lại cho Ban Tổ chức ngay trong ngày tổ chức Hội thảo. Đối với các trường đại học không tham dự Hội thảo, phiếu khảo sát được gửi tới nhà quản lý và cán bộ giảng viên thông qua Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng Việt Nam từ ngày 17/5/2018. Việc thu thập phiếu khảo sát thông qua kênh này được thực hiện cho đến ngày 25/6/2018. Nhóm nghiên cứu gửi và phát từ 2-3 phiếu khảo sát đối với cán bộ quản lý, từ 4-6 phiếu đối với cán bộ giảng viên. Tổng số phiếu khảo sát phát ra đối với cán bộ quản lý là 252, thu về 227, số phiếu đầy đủ thông tin và sử dụng được cho nghiên cứu là 217 (chiếm tỷ lệ 86,1%). Tổng số phiếu khảo sát phát ra đối với cán bộ giảng viên là 585, số phiếu thu về là 468, số phiếu đầy đủ thông tin và sử dụng được cho nghiên cứu là 415 (chiếm tỷ lệ 70,9%). 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Kết quả điều tra được trình bày chi tiết ở bảng 3 và bảng 4 đã cho thấy: Với câu hỏi về việc khai thác nguồn tài trợ hiện có của trường để thực hiện các hoạt động NCKH và PTCN, khoảng 75% giảng viên được hỏi cho biết, dự án NCKH và PTCN của họ không thực hiện được do không nhận được nguồn kinh phí hỗ trợ từ trường; 84% cho biết họ thiếu kinh phí cho XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 50. 2019 110 KINH TẾ NCKH; 76% trả lời họ có ít nguồn tài trợ đối với lĩnh vực nghiên cứu mà họ đang theo đuổi; và khoảng 76% phản ánh rằng họ khó tiếp cận với các nguồn tài trợ cho NCKH và PTCN. Với câu hỏi về kết quả nghiên cứu và phát triển KH&CN, chỉ có 18% giảng viên được hỏi cho rằng kết quả nghiên cứu đã đạt được mục tiêu do trường đề ra, tỷ lệ này ở cán bộ quản lý là khoảng 16% (6.9% hoàn toàn đồng ý và 9.2% đồng ý). Đối với câu hỏi kết quả nghiên cứu và phát triển KH&CN phù hợp với năng lực của trường hay không, chỉ có 25% giảng viên được hỏi đồng ý (12% hoàn toàn đồng ý và 13% đồng ý). Về số lượng sản phẩm khoa học có chất lượng tốt được trường công bố trong 5 năm vừa qua, có xu hướng tăng lên, có tới 62.4% số giảng viên được hỏi không đồng ý. Tuy nhiên, đối với nhà quản lý lại có tới 100% đồng ý với ý kiến này. Tương tự, 25% nhà quản lý các trường được hỏi cho rằng các sản phẩm từ hoạt động NCKH và PTCN của trường được ứng dụng tốt trong thực tế, phần còn lại đưa ra ý kiến trung lập. Ngược lại, có tới 63.1% giảng viên được hỏi không đồng ý với ý kiến này. Điều này cho thấy, có sự nhìn nhận khác nhau giữa nhà quản lý và giảng viên về chất lượng và khả năng ứng dụng các sản phẩm NCKH và PTCN. Như vậy, có thể thấy việc thực hiện hoạt động NCKH và PTCN chưa được thực hiện tương xứng với tiềm năng, mục tiêu của trường đặt ra; bên cạnh đó, còn có sự nhìn nhận khác nhau về kết quả của hoạt động này. Để tìm hiểu nguyên nhân vì sao kết quả NCKH chưa tương xứng với năng lực và mục tiêu của tổ chức giáo dục đại học, nhóm nghiên cứu đã đưa ra các hỏi liên quan đến nguồn kinh phí KH&CN của các trường đại học. Đa số giảng viên được hỏi đều đồng ý rằng hiện nay nguồn kinh phí được cấp từ trường không đủ để thực hiện tốt các dự án nghiên cứu và phát triển KH&CN. Tương tự, khoảng 95% cán bộ quản lý được hỏi đồng ý với ý kiến này. Điều này cho thấy, nguồn kinh phí cho NCKH và PTCN ở các trường đại học khối kỹ thuật hiện nay còn khá hạn hẹp, không đủ để giảng viên và nhà khoa học thực hiện tốt các dự án nghiên cứu. Điều này đồng nghĩa với việc cần huy động thêm các nguồn lực tài chính từ bên ngoài trường để thực hiện các hoạt động KH&CN. Cán bộ quản lý và giảng viên được hỏi đa số đều cho rằng thiếu hụt tài chính là yếu tố cản trở lớn nhất trong quá trình thực hiện các hoạt động NCKH và PTCN của trường. Đối với vấn đề cơ quan làm đầu mối để huy động nguồn lực tài chính cho KH&CN, trên 90% ý kiến của giảng viên và cán bộ quản lý đều đồng ý với nhận định trường thiếu cơ quan làm đầu mối đề huy động nguồn lực tài chính từ cả bên trong và bên ngoài trường dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển KH&CN. 84% giảng viên và 75% cán bộ quản lý được hỏi đều nhất trí về việc cần xây dựng một quỹ tập trung dành cho hoạt động NCKH và PTCN của trường. Kết quả phỏng vấn sâu đã cho biết thêm lý do một số cán bộ quản lý giữ ý kiến trung lập đối với câu hỏi này, họ lo lắng chức năng của quỹ phát triển KH&CN có thể trùng lặp với chức năng của phòng KH&CN của trường. 5. KHUYẾN NGHỊ Hoạt động huy động và quản lý nguồn lực tài chính cho phát triển KH&CN ở các trường đại học hiện nay đang gặp phải những khó khăn như nguồn vốn dựa quá nhiều vào nguồn Ngân sách Nhà nước, kinh phí phát triển KH&CN nếu không sử dụng hết cho một hoạt động nghiên cứu sẽ không được điều chuyển sang các dự án khác, không tạo ra một đầu mối chung để đơn giản hoá các quy trình, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học cũng như thu hút nguồn lực của các bên quan tâm (Tuệ và Linh, 2017). Kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy, việc có một quỹ phát triển KH&CN tập trung có thể tối ưu hóa hoạt động huy Bảng 4. Kết quả điều tra khảo sát cán bộ quản lý về nguồn tài chính cho KH&CN Hoàn toàn đồng ý Đồng ý Trung lập Không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý Nguồn kinh phí được cấp từ trường không đủ để thực hiện tốt các dự án NCKH và PTCN 172 34 6 3 2 79,3% 15,7% 2,8% 1,4% 0,9% Trường thiếu cơ quan làm đầu mối đề huy động nguồn lực tài chính từ các nguồn bên trong và ngoài trường dành cho hoạt động NCKH và PTCN 163 39 9 4 2 75,1% 18,0% 4,1% 1,8% 0,9% Thiếu hụt tài chính là yếu tố cản trở lớn nhất trong thực hiện các hoạt động NCKH và PTCN tại trường 159 43 14 1 0 73,3% 19,8% 6,5% 0,5% 0,0% Cần xây dựng một quỹ tập trung dành cho hoạt động NCKH và PTCN của trường 61 101 55 0 0 28,1% 46,5% 25,3% 0,0% 0,0% Kết quả NCKH và PTCN đạt được mục tiêu do Trường đề ra 15 20 182 0 0 6,9% 9,2% 83,9% 0,0% 0,0% Kết quả NCKH và PTCN phù hợp với năng lực của Trường 33 33 151 0 0 15,2% 15,2% 69,6% 0,0% 0,0% Số lượng sản phẩm khoa học có chất lượng tốt được trường công bố trong 5 năm vừa qua có xu hướng tăng lên 29 188 0 0 0 13,4% 86,6% 0,0% 0,0% 0,0% Các sản phẩm từ hoạt động NCKH và PTCN của trường được ứng dụng tốt trong thực tế 24 31 162 0 0 11,1% 14,3% 74,7% 0,0% 0,0% ECONOMICS-SOCIETY Số 50.2019 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 111 động và quản lý nguồn lực tài chính cho hoạt động phát triển KH&CN. Trên cơ sở đó, tác giả khuyến nghị một mô hình quỹ phát triển KH&CN cho các trường đại học khối ngành công nghệ ở Việt Nam cụ thể như sau: Mục tiêu của quỹ cần hướng tới khai thác nguồn hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước và giữ lại từ hoạt động của trường, đồng thời tập trung thu hút nguồn lực đa dạng từ doanh nghiệp, cá nhân bên ngoài, đảm bảo đủ nguồn lực để giảng viên có thể thực hiện các hoạt động KH&CN mà họ theo đuổi. Quỹ đóng vai trò là đầu mối, tập trung nguồn lực đồng thời hỗ trợ cho giảng viên trong việc tiếp cận các nguồn lực tài chính từ cả bên trong và bên ngoài trường. Cơ cấu tổ chức của quỹ, kết quả nghiên cứu đã cho thấy một bộ phận cán bộ quản lý còn ngần ngại về chức năng nhiệm vụ của quỹ trùng lặp với các phòng ban. Do vậy, cần tổ chức và xác định nhiệm vụ của quỹ một cách rõ ràng, đảm bảo không trùng lặp với nhiệm vụ theo nguyên tắc tập trung nguồn lực KH&CN về một đầu mối. Xác lập cơ chế tài chính của quỹ phù hợp với quy định của Nhà nước và sự thay đổi cơ chế của nhà trường. Cơ chế tài chính của quỹ cần xác định rõ việc xử lý đối với phần tồn dư quỹ và các phương thức thực hiện đầu tư như gửi tiết kiệm ngân hàng thương mại, đầu tư chứng khoán, đầu tư khởi nghiệp, đầu tư mạo hiểm, góp vốn liên kết để duy trì và phát triển quy mô quỹ. Đa dạng hóa nguồn đóng góp vào quỹ. Đưa ra cơ chế rõ ràng để các tổ chức, doanh nghiệp đều có thể đầu tư và được hưởng lợi từ quỹ. Sử dụng quỹ nên chia thành hai mảng: hoạt động liên quan đến đầu tư phát triển vốn của quỹ và hoạt động liên quan đến tài trợ cho các hoạt động KH&CN. (i) Việc đầu tư và việc sử dụng quỹ vào các hoạt động KH&CN cần được quản lý tách biệt. Hoạt động đầu tư cần đạt được mức tỷ suất sinh lời nhất định (cao hơn hoặc tương đương lãi suất ngân hàng) để đảm bảo quỹ có thể tồn tại và phát triển sau khi chi cho vận hành, chi cho các hoạt động và dự tính trượt giá do lạm phát. (ii) Hoạt động tài trợ cho các hoạt động NCKH và PTCN cần cân đối với mức sinh lời kỳ vọng để đảm bảo quy mô của quỹ không bị thu hẹp. Việc phê duyệt và đánh giá các dự án nghiên cứu cần được thực hiện khách quan, phản ánh sự nhìn nhận về hiệu quả từ nhà quản lý và sự đóng góp vào xã hội từ phía các nhà nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy, hiện nay việc ứng dụng kết quả NCKH và PTCN còn hạn chế. Điều này cần được cải thiện thông qua việc xây dựng các tiêu chí tài trợ quỹ rõ ràng, nhấn mạnh vào khả năng ứng dụng thực tế. Cơ chế phối hợp của quỹ với các tổ chức khác, kết quả nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng, giảng viên khó tiếp cận với các nguồn tài trợ cho NCKH và PTCN và sự hạn hẹp của nguồn tài trợ. Chính vì vậy, quỹ phát triển KH&CN muốn phát huy tối đa hiệu quả, cần phối hợp chặt chẽ với các đầu mối KH&CN khác trong trường. Các trường đại học công nghệ có thể thành lập ra các tổ chức trung gian về KH&CN hoặc tích hợp các chức năng trung gian này với chức năng của quỹ phát triển KH&CN. Các tổ chức trung gian thực hiện chức năng làm cầu nối giữa nhà khoa học với khách hàng KH&CN, giúp các nhà khoa học giảm rủi ro trong quá trình triển khai đề tài. Dưới góc độ vận hành quỹ KH&CN, việc có được sự phối hợp với các tổ chức trung gian sẽ giúp việc giải ngân quỹ thuận lợi hơn do các tổ chức này có thể độc lập với quỹ và linh hoạt hơn trong việc tương tác với các tổ chức bên ngoài. 6. KẾT LUẬN Nghiên cứu này đã chỉ ra xu hướng chung trên thế giới và Việt Nam về việc đa dạng hóa nguồn quỹ cho hoạt động phát triển KH&CN tại các trường đại học, phân tích sự cần thiết của quỹ phát triển KH&CN ở trường đại học Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy các trường đại học ở Việt Nam hiện nay chưa phát triển hoạt động KH&CN tương xứng với tiềm năng của mình và sự cấp thiết của việc thành lập các quỹ phát triển KH&CN. LỜI CẢM ƠN Bài báo này công bố một phần kết quả của đề tài NCKH công nghệ cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, mã số B2017-BKA- 41 đã được triển khai thực hiện tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cục sở hữu trí tuệ, (2017). Báo cáo thường niên hoạt động sở hữu trí tuệ 2016. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 2. Ủy ban quốc gia về khoa học Mỹ, (2017). Các chỉ tiêu KH&CN Mỹ năm 2016. Quỹ khoa học quốc gia Mỹ, New York. 3. Cơ quan thống kê Canada, (2018). Provincial estimates of research and development expenditures in the higher education sector, by funding sector and type of science. Statistics Canada, Canada. 4. Ahmad, A. R., Farley, A. and Naidoo, M., (2012). The Study of Government-university Relationship in Malaysian Higher Education System. International Education Studies, 5 (5): 25-34. 5. Amran, F. H., Rahman, I. K., Salleh, K., Ahmad, S. N. and Haron, N. H., (2014). Funding Trends of Research Universities in Malaysia. International Conference on Accounting Studies 2014, ICAS 2014 Kuala Lumpur, Malaysia: Procedia - Social and Behavioral Sciences, pp. 126-134. 6. Nguyễn Đăng Tuệ, (2016). Legal issues concerning academic-industry collaboration in exploiting research funds. ICECH2016 - International Conference on Emerging Challenges: Partnership Enhancement, Nhà xuất bản trường Đại học Bách khoa Hà Nội, trang 91-99. 7. Nguyễn Đăng Tuệ và Hứa Phương Linh, (2017). Mô hình quỹ khoa học công nghệ với sự tự chủ tài chính trong hoạt động nghiên cứu của các trường đại học công nghệ. Hội thảo Quốc gia Tự chủ đại học - Cơ hội và thách thức, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, trang 112-127.
File đính kèm:
- ap_dung_mo_hinh_quy_phat_trien_khoa_hoc_va_cong_nghe_tai_cac.pdf