Ảnh hưởng của hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam
Chất ph gia thực phẩm là loại chất không có dinh dưỡng được bổ sung
thêm vào thực phẩm để gia tăng giá trị thương phẩm và bảo quản thực phẩm và hoạt động
kinh doanh chất ph gia thực phẩm hoạt động trao đổi mua, bán chất ph gia thực phẩm của
các chủ thể kinh doanh nhằm m c đích sinh lời. Nhu cầu sử d ng chất ph gia thực phẩm
ngày càng tăng nhưng thị trường sản phẩm này ở Việt Nam vẫn ph thuộc vào nhập khẩu.
Chính vì vậy, khi Việt Nam ký kết các hiệp định FTA thế hệ mới sẽ tạo ra những cơ hội và
thách thức lớn đối với hoạt động động kinh doanh chất ph gia thực phẩm như những tác
động đến hoạt động xuất, nhập khẩu chất ph gia thực phẩm, hoạt động sản xuất, kinh doanh
trong nước, môi trường kinh doanh chất ph gia thực phẩm. Bài viết trên cơ sở những luận
cứ khoa học và những bằng chứng nghiên cứu thực trạng về ảnh hưởng của các FTA thế hệ
mới đến hoạt động kinh doanh chất ph gia thực phẩm đã gợi ý những chính sách và giải
pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh mặt hàng này trên thị trường Việt Nam thời gian tới khi Việt Nam tiếp t c ký kết và
triển khác có hiệu quả các FTA thế hệ mới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam
,06 257 100 2017 82 28,47 172 59,72 34 11,81 288 100 2018 88 29,04 180 59,41 35 11,55 303 100 (Nguồn: Báo cáo C c ATTP, 2018) Mặt khác, việc thực hiện ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng tác động tích cực đến việc hoàn thiện các chính sách về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm chất phụ gia thực phẩm cả trong nước cũng như xuất khẩu. Một thực tế hiện nay, thị trường chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động nhập khẩu (Chủ yếu từ các doanh nghiệp Bỉ và Đức) và việc ký kết hiệp định EVFTA sẽ giúp các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng chất phụ gia thực phẩm trong nước dễ dàng hơn trong tiếp cận đối với mặt hàng này. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia nhiều FTA. Để được hưởng ưu đãi từ những FTA đó, điều kiện tiên quyết là phải chứng minh được xuất xứ hàng hóa. Ví dụ, một doanh nghiệp kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam muốn được hưởng thuế suất 0% khi xuất khâir sang các nước ASEAN, sản phẩm phải có 40% nguyên liệu có xuất xứ tại Việt Nam. 621 Việc chứng minh xuất xứ hàng hóa có tác dụng khuyến khích các nước trong cùng một FTA nỗ lực nội địa hóa để trao đổi thương mại nhiều hơn. Theo quan điểm trên, khi Việt Nam tham gia các FTA, mới đây nhất là CPTPP và EVPTA thì các FTA thế hệ mới yêu cầu chứng minh xuất xứ linh hoạt, có FTA đòi hỏi chặt chẽ hơn. Nhưng tất cả FTA hiện nay đều dựa trên nền tảng chung của WTO và việc chứng minh xuất xứ hàng hóa chỉ có những khác biệt tương đối nhỏ. Một khi doanh nghiệp quen với quy tắc xuất xứ của một hiệp định nào đó, họ sẽ nắm bắt điều này ở các hiệp định khác khá dễ dàng. Bên cạnh đó, khi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết sẽ thúc đẩy quá trình cắt giảm các loại thuế quan, điều này sẽ giảm chi phí nhập khẩu nguyên liệu và nhập khẩu các chất phụ gia thực phẩm. Để đánh giá sự ảnh hưởng của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến hoạt động xuất, nhập khẩu chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam, bài viết khảo sát những yếu tố thúc đẩy quá trình kinh doanh chất phụ gia thực phẩm thông qua hoạt động xuất nhập khẩu: Bảng 6. Kết quả khảo sát các thành tố thúc đẩy hoạt động xuất, nhập khẩu chất phụ gia thực phẩm sau khi các FTA thế hệ mới được ký kết có hiệu lực TT Tiêu chí Đơn vị Mức đánh giá ĐTB 1 2 3 4 5 1 Sự nỗ lực của các cơ quan quản l nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế Số phiếu 21 74 203 104 34 3,06 % 4,71 16,59 45,52 23,32 7,62 2 Thuế suất giảm và những ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu chất phụ gia thực phẩm. Số phiếu 32 61 216 81 56 3,15 % 7,17 13,68 48,43 18,16 12,56 3 Hoàn thiện các quy định về nguồn gốc xuất xứ chất phụ gia thực phẩm Số phiếu 34 54 209 111 38 3,14 % 7,62 12,11 46,86 24,89 8,52 4 Hiệp định CPTPP và EVFTA đi vào thực thi sẽ là động lực cho hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm (đặc biệt là hoạt động xuất, nhập khẩu). Số phiếu 35 145 169 88 9 2,76 % 7,85 32,51 37,89 19,73 2,02 (Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả) Kết quả khảo sát tại Bảng 6 cho thấy, khi Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới sẽ làm thuế suất giảm, qua đó giúp hoạt động xuất, nhập khẩu chất phụ gia thực phẩm được thuận lợi hơn với GTTB = 3,15/5 điểm. Tuy nhiên, triển vọng về hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam khi các FTA thế hệ mới được ký kết chưa cao với GTTB = 2,76/5 điểm. Sở dĩ có kết quả trên là do xu hướng bảo hộ đang quan trở lại mạnh mẽ đối với các nước như Mỹ, Trung Quốc điều này sẽ tạo ra những lực kéo là các thành viên EU có xu hướng bảo hộ sẽ trỗi dậy và tác động đến niềm tin của người dân vào hiệu quả chính sách 622 được ký kết. Đặc biệt, với cam kết mở cửa thị trường trong EVFTA sẽ giúp mở rộng hơn nữa thị trường hàng xuất khẩu, nhất là những sản phẩm mà cả hai cùng có lợi thế như Bỉ có thể tăng cường xuất khẩu chất phụ gia đáp ứng các tiêu chuẩn vào Việt Nam và thị trường chất phụ gia thực phẩm ở Việt Nam cũng sẽ sô động hơn với nguồn cung dồi dào. Thứ hai, đối với sản xuất chất phụ gia thực phẩm trong nước: Việc tham gia các FTA thế hệ mới sẽ khiến cho các mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất chất phụ gia thực phẩm có giá thấp hơn, do đó, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp được cắt giảm, từ đó, giá cả các chất phụ gia thực phẩm trong nước sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất các mặt hàng chất phụ gia thực phẩm trong nước để xuất khẩu. Việc cắt giảm thuế quan sẽ khiến chất phụ gia nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là các nước EU vào Việt Nam sẽ nhiều hơn do giá thành r , mẫu mã phong phú và đa dạng, sẽ tác động tích cực đến sản xuất mặt hàng chất phụ gia thực phẩm trong nước trong nước. (Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả) Biểu 2. Kết quả khảo sát đối với ảnh hưởng của FTA thế hệ mới đến các yếu tố của sản xuất, kinh doanh chất phụ gia thực phẩm ở trong nước Bài viết thực hiện khảo sát đối với những ảnh hưởng của hiệp định FTA thế hệ mới đến hoạt động sản xuất chất phụ gia thực phẩm ở trong nước, kết quả cho thấy ―Công nghệ sản xuất‖ bị ảnh hưởng nhiều nhất trong FTA thế hệ mới, kết quả này chỉ ra rằng các doanh nghiệp không đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí giá thành thì sẽ không cạnh tranh được với sự phát triển về công nghệ của các nước trên thế giới đặc biệt là EU trong sản xuất mặt hàng chất phụ gia thực phẩm. Thứ ba, đối với môi trường kinh doanh: Việc tham gia các FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP về các vấn đề thể chế, chính sách pháp luật sau đường biên giới sẽ tạo điều kiện và động lực cơ hội để thay đổi, cải thiện chính sách và pháp luật theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Các FTA thế hệ mới sẽ giúp Việt 25.68 46.13 19.62 8.57 Nguyên liệu đầu vào Công nghệ sản xuất Hoạt động xuất nhập, khẩu đối với đầu ra Khác 623 Nam kiện toàn hơn bộ máy nhà nước, theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chín chính những điều này sẽ tác động đến môi trường kinh doanh chất phụ gia thực phẩm thuận lợi và lành mạnh hơn. Đề tài khảo sát ảnh hưởng của các FTA thế hệ mới đến các yếu tố tạo lập nên môi trường kinh doanh chất phụ gia thực phẩm: Bảng 7. Kết quả khảo sát khảo sát ảnh hưởng của các FTA thế hệ mới đến các yếu tố tạo lập nên môi trường kinh doanh chất phụ gia thực phẩm TT Tiêu chí Đơn vị Mức đánh giá ĐTB 1 2 3 4 5 1 Hệ thống văn bản quản lý hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm Số phiếu 25 46 164 178 33 3,33 % 5,60 10,31 36,77 39,91 7,40 2 Đổi mới bộ máy tổ chức quản l đối với hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm Số phiếu 40 91 146 140 29 3,06 % 8,97 20,40 32,74 31,39 6,50 3 Thủ tục hành chính trong hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm Số phiếu 33 101 152 114 46 3,09 % 7,40 22,64 34,08 25,56 10,31 (Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả) Kết quả khảo sát của tác giả đối với những ảnh hưởng của FTA thế hệ mới đến các yếu tố tạo lập môi trường kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam cho thấy: Hệ thống văn bản quản lý hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm sẽ thay đổi nhiều nhất với GTTB = 3,33/5 điểm với sự cắt giảm các điều kiện về kinh doanh, hỗ trợ các vấn đề pháp l liên quan đến thành lập doanh nghiệp mới hệ thống văn bản được cải thiện theo hướng giám thiểu các thủ tục hành chính. Đối với bộ máy quản tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi hiệu lực của các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia. 4.2.2. Một số thách thức đặt ra đối với hoạt động kinh doanh chất ph gia thực phẩm Bên cạnh những tác động tích cực, việc thực hiện các FTA thế hệ mới đặt ra một số thách thức cho hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam, cụ thể: Thứ nhất, thách thức về hoàn thiện thể chế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam. Quá trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đã có những tác động sâu rộng đến nền kinh tế Việt Nam. Công tác xây dựng thể chế, chính sách dần được hoàn thiện, giúp nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến rõ n t qua đó thực đẩy các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chất phụ gia phát triển. Hơn nữa, hội nhập quốc tế góp phần mở rộng thị trường, tăng lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm phụ gia của Việt Nam so với các nước trong khu vực; qua đó, cơ cấu mặt hàng chất phụ gia xuất, nhập khẩu đã có chuyển biến về chất. Tuy nhiên, so với thông lệ quốc tế, thể chế kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam còn khoảng cách lớn dẫn đến việc thành lập các doanh nghiệp kinh doanh chất phụ gia vẫn còn hạn chế. 624 Thứ hai, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam cũng như từng chất phụ gia thực phẩm hiện nay còn thấp. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết dẫn đến các mặt hàng chất phụ gia thực phẩm được sản xuất trong nước chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các chất phụ gia thực phẩm nhập khẩu. Thứ ba, đối với nhập khẩu, mặc dù việc ký kết FTA với nhiều đối tác song trong ngắn hạn, nhập khẩu các sản phẩm chất phụ gia thực phẩm của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào các thị trường truyền thống như Bỉ, Ấn Độ, Trung Quốc, do mức độ cam kết thuế sâu cũng như vị trí địa lý thuận lợi sẽ khiến cho vấn đề các chất phụ gia không rõ nguồn gốc được nhập lậu từ Trung Quốc về Việt Nam chưa thể giải quyết dứt điểm. Bên cạnh đó, việc cắt giảm thuế cũng tạo nhiều áp lực đến hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm của các chủ thể kinh doanh trong nước. Thứ tư, trình độ đội ngũ cán bộ và năng lực của các cơ quan quản l nhà nước cần tiếp tục tăng cường để đáp ứng yêu cầu quản lý, giám sát thị trường chất phụ gia thực phẩm, cải cách thủ tục hành chính, hạn chế tình trạng hàng giả, hàng nhái liên quan đến mặt hàng chất phụ gia thực phẩm 5. Kết luận và một số khuyến nghị Bài viết đã đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của các FTA thế hệ mới đến hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam. Kết quả phân tích dữ liệu điều tra cho thấy những ảnh hưởng tích cụng của các FTA thế hệ mới đến hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam, đặc biệt là hiệp định EVFTA. Bên cạnh đó, để có thể tận dụng được những cơ hội và hạn chế những thách thức trong thực hiện cam kết của các FTA thế hệ mới đối với hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm, thời gian tới, cần chú trọng đến một số giải pháp sau: Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách gắn với việc thực hiện các cam kết hội nhập, nhằm nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng vốn đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đối với mặt hàng chất phụ gia thực phẩm, thúc đẩy chuỗi cung ứng trong thị trường công nghệ thực phẩm mà chất phụ gia thực phẩm là một yếu tố không thể thiếu; chú trọng trọng hướng phát triển bền vững để giảm thiểu tác động tiêu cực thông qua việc xây dựng một quy trình sản xuất kinh doanh khép kín, hoặc tăng cường gia nhâp chuỗi sản xuất kinh doanh của ngành công nghệ thực phẩm. Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế theo lộ trình. Trong việc sửa đổi, bổ sung các chính sách, cần đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả, duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh nói chung, không gây xáo trộn, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam đang hoạt động cũng như các nhà đầu tư mới vào lĩnh vực chất phụ gia thực phẩm. Kịp thời rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bãi bỏ quy định không phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế song phương, đa phương và khu vực mà Việt Nam là thành viên liên quan đến hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh chất phụ gia thực phẩm nói riêng. Ba là, đẩy mạnh cải cách hành chính trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực về đầu tư, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong hoạt động thương mại, hoạt động kinh doanh chất phụ gia thực phẩm; Giám sát chặt chẽ việc 625 ban hành và áp dụng các giấy ph p, điều kiện kinh doanh chất phụ gia thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ đối với các chất phụ gia thực phẩm. Bốn là, tăng cường liên kết với nhau, tạo những cơ hội đầu tư nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong sản xuất, kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam; Chủ động xây dựng năng lực sản xuất, kinh doanh, cải thiện chất lượng, mẫu mã các chất phụ gia thực phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng thương hiệu các mặt hàng chất phụ gia thực phẩm; Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, đầu tư vào các vùng trồng nguyên liệu để giảm thiểu phụ thuộc nguyên phụ liệu của các nhà cung cấp nước ngoài trong sản xuất chất phụ gia thực phẩm. Năm à, hoàn thiện các nội dung về ghi nhãn, nguồn gốc xuất xứ đối với các sản phẩm chất phụ gia thực phẩm. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản luật và hướng dẫn thi hành luật về kinh doanh chất PGTP các cấp đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh chất PGTP, quy định rõ các thông tin cần có đối với một sản phẩm chất PGTP muốn lưu hành trên thị trường đồng thời tăng mức xử phạt đủ sức răn đe đối với các trường hợp vi phạm. Áp dụng các chính sách nhập khẩu chất PGTP hợp l đảm bảo sự phát triển cân bằng của thị trường giữa các sản phẩm chất PGTP trong và ngoài nước đồng thời xây dựng chiến lược dài hạn cho việc xuất khẩu chất PGTP Việt Nam ra thị trường nước ngoài, hỗ trợ thông tin về các thị trường xuất khẩu chất PGTP cho doanh nghiệp kinh doanh chất PGTP. Sáu là, tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp kinh doanh chất phụ gia thực phẩm tại Việt Nam. Bên cạnh việc hoàn thiện thể chế, chính sách, đổi mới về các chính sách thuế, xuất nhập khẩu chất phụ gia thực phẩm thì các doanh nghiệp kinh doanh chất phị gia thực phẩm cần tăng cường năng lực của mình thông qua tạo môi hình chuỗi liên kết sản xuất đối với các mặt hàng chất phụ gia thực phẩm từ khâu trồng nguyên liệu đến khâu kinh doanh cuối cùng. Đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm theo hướng đảm bảo sức khỏe và thẩm mỹ đối với các thực phẩm có sử dụng chất phụ gia thực phẩm TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2010), Luật An toàn thực phẩm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2. Cục An toàn thực phẩm (2019), Báo cáo hoạt động kinh doanh các mặt hàng thuộc quản ý của Bộ Y tế giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội. 3. JECFA (2006), Tổng quan về chất ph gia thực phẩm, FAO, Rome 4. Đàm Sao Mai (2012), Ph gia thực phẩm, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. 5. Nguyễn Duy Thịnh (2009), Các chất ph gia dùng trong sản xuất thực phẩm, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội 6. Lê Quang Thuận (2019), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Hà Nội.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_hiep_dinh_thuong_mai_tu_do_the_he_moi_den_hoat.pdf